Nội dung. 1. Sự cần thiết lập kế hoạch sử dụng đất. Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là nguồn nội lực, là nguồn vốn to lớn của quốc gia; là điều kiện để sản xuất ra của cải vật chất, là tư liệu sản xuất đặc biệt và quý báu nhất đối với
UBND TP Hồ Chí Minh cho biết việc đề xuất tăng học phí sau 2 năm diễn ra dịch bệnh là vấn đề hết sức nhạy cảm. Tuy nhiên, khung học phí năm học 2022-2023 theo Nghị định 81/2021 quy định mức sàn thu học phí đối với các địa bàn dân cư thành thị và nông thôn tương
Hồ Chí Minh KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT. Tổ chức; GIỚI THIỆU. Lênin trang bị cho người học các kiến thức cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về thế giới quan và phương pháp luận khoa học; các nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Trên đây chỉ là cách bấm huyệt nội quan trị xuất tinh sớm ngay khi "lâm trận". Để đạt hiệu quả cao hơn, tốt nhất là người nam cần luyện tập bấm huyệt nội quan cho chính bản thân mình hằng ngày. Thói quen bấm huyệt nội quan mỗi ngày 1 đến 2 lần, mỗi lần khoảng
86% các ngân hàng trung ương đang cân nhắc về giá trị của đồng tiền kỹ thuật số quốc gia (CBDC) đối với nền kinh tế. cũng như cơ hội của nước ta trong cuộc đua thí điểm tiền số giữa các quốc gia. 115 Trần Duy Hưng, Quận Cầu Giấy, Hà Nội Điện thoại: 024 3
Có những nội dung và nguyên tắc cơ bản nào của sự liên minh đó? Câu hỏi 139: Những dự báo của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự ra đời, phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa dựa trên cơ sở nào? Theo dự báo đó, hình thái kinh tế
ysBvr2. Trang chủ » Minh Trị duy tân Cuộc cách mạng tư tưởng của người Nhật và tư duy phương Đông Tóm tắtI. Tư duy phương Đông và Nhật Bản1. Một số vấn đề về tư duy phương Đông2. Nhật Bản Vài nét về tư tưởng truyền thốngII. Cải cách Minh Trị1. Trung Quốc và Phương Tây sự lựa chọn của người Nhật giữa hai dòng nước2. Minh Trị Duy Tân tiến trình, nội dung cơ bảnIII. Tư tưởng khai sáng – ngọn hải đăng dẫn đường cuộc cách mạngTài liệu tham khảo Minh Trị duy tân Cuộc cách mạng tư tưởng của người Nhật Bản và tư duy phương Đông Tác giả TS. Đỗ Đức Minh & ThS. Võ Thị Hoa Là một chuỗi các sự kiện cải cách, cách tân dẫn đến những thay đổi to lớn trong cấu trúc xã hội và chính trị Nhật Bản; cuộc Cải cách “Minh Trị Duy Tân” đã mang đến những thay đổi mạnh mẽ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội trong lòng nước Nhật. Bắt đầu từ sự thay đổi trong nhận thức và tư duy người Nhật đã dũng cảm đoạn tuyệt với những quan điểm, tư tưởng truyền thống lạc hậu và đón nhận những tư tưởng, tri thức tiến bộ của nhân loại, đưa đất nước Nhật Bản bước vào thời kỳ hội nhập mạnh mẽ và giành được những kỳ tích trên con đường phát triển, xây dựng đất nước. Những thành tựu của công cuộc cải cách Minh Trị đã tạo lập khung khổ và nền móng vững chắc cho sự phát triển của đất nước Nhật Bản hiện đại. Xem thêm bài viết về “Cải cách Minh Trị“ I. Tư duy phương Đông và Nhật Bản 1. Một số vấn đề về tư duy phương Đông Tư duy phương Đông được nảy sinh trên nền tảng xã hội phương Đông với kết cấu kinh tế là những công xã nông thôn bảo thủ và hệ tư tưởng Nho giáo đề cao lễ nghĩa, coi nhẹ luật pháp, trọng tình hơn lí… chiếm địa vị thống trị tư tưởng trong suốt thời kỳ phong kiến và tạo ra truyền thống cai trị bằng đức 徳 với chủ nghĩa duy tình 唯 情 còn phương Tây là pháp trị Rule of law và duy lí 唯 理. Triết học phương Tây ngả về tư duy duy lí, phân tích mổ xẻ còn phương Đông thì ngả về dùng trực giác. Tư duy phương Tây thiên về chủ biệt, tư duy phương Đông nghiêng về chủ toàn GS. Trần Đình Hượu. Ý thức phương Đông thấm nhuần chất thơ hơn ý thức phương Tây, trừ trường hợp Hy Lạp. Văn minh phương Đông cổ xưa là văn minh làng xã, họ không đặt mục đích chinh phục thiên nhiên mà dựa vào thiên nhiên, gửi gắm tình cảm vào thiên nhiên để tồn tại và lập ra những hương ước nặng về tình để đối nhân xử thế. Trong khi đó, nền văn minh phương Tây với đặc trưng đô thị phát triển sớm, người phương Tây đã có ý thức cạnh tranh với thiên nhiên và siêu nhiên, chinh phục thiên nhiên và chinh phục thế giới để khẳng định sức mạnh của con người lí tính. Trong khi phương Tây với truyền thống văn hóa nổi bật luôn coi trọng chủ nghĩa cá nhân và quan niệm quyền lợi cá nhân thai nghén cùng với khái niệm công dân; văn hóa phương Đông nói chung luôn xem xét con người trong tổng thể các mối quan hệ xã hội, coi trọng những vai trò gia đình và dòng họ. Tư tưởng tôn trọng gốc gác nơi đất mẹ thiên nhiên Ấn Độ và cội nguồn huyết thống Trung Quốc của người phương Đông đã dẫn đến một ý thức thuần phục gần như tuyệt đối đối với tôn ti trật tự đã được thiết lập trong chính trị và tôn giáo. Trong thần thoại phương Đông, thế lực thần thánh được phát huy tuyệt đối quyền hành, tôn ti trật tự được tuân thủ nghiêm ngặt. Đạo Phật 佛 教 của phương Đông về cơ bản là nhất quán, thông suốt, hầu như không có những “kẻ phản nghịch”; nhưng ở phương Tây, đạo Cơ đốc luôn được sửa đổi, cải cách, thậm chí ly giáo. Người phương Tây mà từ tôn giáo tới các chế độ chính trị, kinh tế đều thấm nhuần chủ nghĩa cá nhân, dĩ nhiên không thích những học thuyết luân lí đã làm thỏa mãn tinh thần triết lí phương Đông trong suốt chiều dài lịch sử. Đề cao sức mạnh của thiên nhiên và siêu nhiên, người phương Đông quan niệm con người phụ thuộc vào thiên nhiên và thế giới siêu nhiên. Phải chăng mối quan hệ tình cảm có phần huyền bí giữa con người với thiên nhiên và với thế giới siêu nhiên là lí do chính tạo ra kiểu tư duy này? Nghiên cứu lịch sử tư tưởng tư duy phương Đông, chúng ta thấy phần nổi trội nhất mang tính chi phối là tư tưởng Trung Quốc1; vì vậy, nghiên cứu lịch sử tư tưởng của quốc gia này cho thấy những yếu tố tiêu biểu và qua đó có thể sáng tỏ đặc trưng chung của các tư tưởng chính trị phương Đông. Đối với vùng Viễn Đông, Trung Quốc có vai trò truyền thống giống như vai trò của đế chế La Mã ở Châu Âu – nghĩa là nguồn cảm hứng thường trực đối với các vấn đề về chính trị, văn hóa, tôn giáo, triết học và khoa học. Đây cũng là một nền văn hóa trong một thời kỳ nhất định đã có tác dụng trong nhiều mặt đối với phương Đông và lịch sử loài người, như kỹ thuật sản xuất, ảnh hưởng của tổ chức xã hội, tư tưởng đạo đức… Đời sống chính trị Trung Quốc và một số nước Đông Á chịu ảnh hưởng lớn bởi các dòng tư tưởng chính trị Nho gia 儒 家 hay Khổng giáo 孔 教, Pháp gia 法 家 và Đạo gia 道 家. Đặc biệt, “phương Đông nặng về tư tưởng Nho giáo còn phương Tây thiên về chủ nghĩa văn minh” [3, Đường lối Đức trị 德 治 của Khổng Tử đã thống trị trong xã hội phong kiến Á Đông hàng nghìn năm lịch sử đã ảnh hưởng sâu sắc đến kết cấu văn hóa, đặc tính tâm lí và luân lí của nhân dân Trung Quốc, đồng thời tạo nên một truyền thống lớn của văn hóa khu vực. Là một học thuyết coi trọng huyết thống, chuộng gốc, nhớ nguồn, đề cao trung-hiếu, tôn ti trật tự; Nho giáo giúp các xã hội này có tính tổ chức cao, duy trì trật tự xã hội, gìn giữ các tiêu chuẩn đạo đức của xã hội ở một mức khá cao, xã hội văn minh và ổn định lâu dài. Nho giáo tiến hành tất cả những điều đó không phải bằng vũ lực mà bằng chủ trương giáo dục toàn diện từ vua quan đến nhân dân để mỗi người đều tự giác thực hiện tùy theo vai trò của mình 自 天 子 以 至 於 庶 人,壹 是 皆 以 修 身 為 本; 君 君, 臣 臣, 父 父, 子 子 – Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản [1, “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” – Vua ra vua, bề tôi ra bề tôi, cha ra cha, con ra con [1, và đó cũng là lí do tại sao những nước sùng đạo Nho đều rất coi trọng giáo dục. Là tư tưởng chính thống và chiếm địa vị chủ yếu trong lịch sử Trung Quốc, Nho giáo đã góp phần xây dựng một dạng thức đặc trưng của cấu hình tư tưởng và cấu hình tư duy phương Đông. Từ đời Hán, chủ trương độc tôn Nho đã bóp méo Nho giáo nguyên thủy đến cực đoan để phục vụ cho yêu cầu chính trị độc tài chuyên chế quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu 君 處 臣 死 臣 不 死 不 忠 , 父 處 子忘 子 不 忘 不 孝. Tính chất chính trị độc tài, thống soái, đứng trên và chi phối mọi hình thái ý thức xã hội khác kể cả pháp luật là một điển hình của phương Đông. Ánh hào quang thần bí của vương quyền, tư tưởng trung quân tuyệt đối của đạo Nho và sự trừng phạt tàn bạo của pháp luật là đảm bảo vững chắc cho vương vị và vương quyền, mang bản sắc văn hóa – pháp lí phương Đông. Sự khắt khe của pháp luật phong kiến cũng như lệ tục của làng xã cổ truyền do ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo – nhất là Tống Nho 宋 儒 nên vị trí và vai trò của người phụ nữ trong xã hội rất mờ nhạt, bị đối xử bất bình đẳng so với nam giới. Các quan niệm trọng nam khinh nữ 重 男 輕 女, đạo tam tòng 三 從, thất xuất 七 出, nga tử sự tiểu, thất tiết sự đại 饿 死 事 小 失 节 事 大2Trình thị di thư đầy bất công đã buộc chặt người phụ nữ vào những khuôn phép khắc nghiệt vô hình và chịu nhiều bất hạnh. Đặc biệt, từ khi chế độ phong kiến tập quyền thành lập thì Khổng học trở nên độc tôn thì ngày càng quay về xu hướng bảo thủ, lạc hậu, xa rời thực tế. Dưới chế độ quân chủ chuyên chế phương Đông, yếu tố dân chủ, tư tưởng tự do hầu như không được biểu hiện. Xem thêm bài viết về “Nhật Bản” Vai trò của Kiểm sát viên Việt Nam và Công tố viên Nhật Bản trong tố tụng hình sự – ThS. Nguyễn Hải Yến Bồi thường thiệt hại do ô tô tự lái gây ra trong pháp luật Đức và Nhật Bản – TS. Nguyễn Thị Phương Châm Ba vấn đề về vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2005 Kinh nghiệm nhìn từ Nhật Bản – TS. Nguyễn Quốc Vinh Điều kiện áp dụng chế định hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba trong Bộ luật Dân sự Việt Nam – So sánh với Pháp luật Nhật Bản – ThS. Đặng Thái Bình Thuế Carbon – Công cụ tài chính kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí – Bài học kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam từ Nhật Bản – ThS. Nguyễn Lưu Lan Phương 2. Nhật Bản Vài nét về tư tưởng truyền thống Là một quần đảo cô lập nằm nhỏ nhoi như một dấu ngoặc lửng ở rìa phía đông của khu vực giao lưu giữa Á – u rộng lớn, tương đối biệt lập với các quốc gia khác tại châu Á trong nhiều thế kỉ cho tới thời kỳ mở cửa năm 1868, nên Nhật Bản3có các nét riêng về phong tục, tập quán, chính trị, kinh tế và văn hóa. Việc chuyển từ chế độ nô lệ sang chế độ phong kiến cùng với sự thay đổi của các quan hệ mang tính giai cấp cũng trải qua một thời kỳ lâu dài và phụ thuộc vào những bước tiến từ từ. Pháp luật cổ đại của Nhật chính là sự kết hợp của đạo Saman – một tôn giáo mang tính sơ khai. Từ thế kỉ VI-VIII, trên quê hương Núi Phú Sĩ, Hoa Anh đào, Thần đạo 神 道/Shintō và Sumo, một nhà nước tập quyền được thành lập và đóng đô ở Asuka gần thành phố Nara ngày nay, tên nước từ Đại Hòa 大 和/Yamato đổi thành Nhật Bản. “Năm 646, cuộc cách tân Đại Hóa 大 化 改 新/Taika, thời kỳ này, Nhật Bản còn tàn dư xã hội thị tộc, lạc hậu hơn Trung Quốc và người Nhật Bản đã học Trung Quốc. Cũng chính thời kỳ này, Nhật Bản khẳng định thời kỳ phong kiến, xây dựng nhà nước trung ương tập quyền” [2, Hoàng đế được gọi là Thiên Hoàng 天 皇/Tenno, có uy quyền lớn4. Trong quá trình xác lập nhà nước phong kiến, các nhân tố ngoại lai đóng một vai trò khá quan trọng và ảnh hưởng của nền pháp luật, các học thuyết chính trị Trung Quốc đối với Nhật Bản rất sâu sắc. Đồng thời, từ quê hương Ấn Độ, Đạo Phật được truyền sang Nhật qua Trung Quốc với tổ chức tôn ti và có tính chất tập trung, là một thứ khuôn mẫu cho nhà nước phong kiến Nhật Bản mô phỏng. Đó là “một con chim lớn kỳ diệu, bay qua đại dương trên đôi cánh mạnh mẽ, mang tới cho Nhật Bản tất cả những nhân tố của một đời sống mới – một nền đạo đức mới, kiến thức về tất cả các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, nghề nghiệp, và các tư tưởng siêu hình tinh tế vốn chưa từng xuất hiện trong truyền thống bản địa” [4, Dưới tác động của mô hình cai trị nhà Đường, Nhật Bản cố gắng xây dựng một chính quyền Trung ương tập quyền dựa trên một hệ thống pháp luật hoàn bị đứng đầu là Thiên Hoàng. Đến thời kỳ Nara 710 – 794, nền văn hóa đạt tới mức cao nhờ kết hợp các yếu tố Trung Hoa và Nhật Bản. Để xác lập quyền lực mang tính chuyên chế của Thiên Hoàng thì một hình thức pháp luật đã được xây dựng theo kiểu luật nhà Tấn 晉 朝, 266-420 và nhà Đường 唐 朝, 618-907 ở Trung Quốc. Các Bộ luật hình sự phong kiến Luật lệnh 律 令/Ritsuryo được ban hành vào đầu TK VIII “là bản sao hoàn toàn của Bộ luật hình sự nhà Đường”. Bộ luật hình sự năm 1870 cũng lấy mẫu các bản hình pháp của nhà Minh và nhà Thanh, đồng thời thể chế hóa luật Yedo của Mạc phủ. Nhìn chung, Nhật Bản chưa xuất hiện một nền pháp luật độc lập mà còn chịu ảnh hưởng khá lớn của pháp luật phong kiến Trung Hoa chủ yếu là hệ tư tưởng Nho gia và pháp giatừ thời cổ đại kéo dài suốt thời kỳ trung đại và cận đại. “Ở Nhật Bản, rõ ràng chịu ảnh hưởng rất nhiều của các Bộ luật vay mượn của Trung Quốc, những Bộ luật này đã mục nát và biến đổi qua năm thế kỉ sử dụng ở Nhật Bản, vẫn để lại một di sản được các tài liệu viết kính trọng và các chuyên gia dựa vào” [4, Cũng như luật pháp phong kiến Trung Hoa và các nước trong khu vực, luật pháp Nhật Bản thời kỳ này thể hiện công khai sự phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt. Pháp luật cũng không có sự phân định rạch ròi giữa tội hình sự, dân sự và việc không chấp hành nghĩa vụ thông thường ví dụ kẻ không trả được nợ cũng bị xử hình sự như người thường phạm tội trộm cắp. Việc ban hành pháp luật nhằm để bảo vệ và củng cố những đặc quyền của giai cấp phong kiến5. Tuy nhiên, do không có bệ đỡ vững chắc của một thể chế chính trị tập quyền cao và không phải là một xã hội thuần nông nghiệp, nên mặc dù được chính quyền Edo tôn vinh nhưng khi thâm nhập vào xã hội Nhật Bản, thì nhiều giá trị của hệ tư tưởng Nho giáo đã bị biến đổi để thích ứng với môi trường chính trị mới. Người Nhật đã tiếp nhận Nho giáo theo cách thức riêng của mình và kết quả là Nho giáo không thể trở thành hệ tư tưởng chính thống trên bình diện quốc gia và giữ vai trò độc tôn ở Nhật Bản. Vì vậy, mặc dù cố thâu tóm quyền lực vào chính quyền trung ương, củng cố chế độ độc tài chuyên chế nhưng nhà nước Nhật Bản vẫn không ngăn cản được khuynh hướng phân quyền cát cứ6. Thay vào đó, hình thức chuyên chính quân phiệt được xem như một nét đặc trưng trong quá trình phát triển của nhà nước phong kiến Nhật Bản. Ngày nay, đa số các học giả đều cho rằng Nho giáo bắt đầu được truyền bá vào Nhật Bản qua Triều Tiên vào khoảng trước thế kỉ thứ V qua con đường giao thương buôn bán và qua những người Hàn Quốc di cư sang Nhật Bản. Nhưng phải đến nửa đầu thế kỉ VI, giai cấp quý tộc Nhật Bản mới chính thức chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo. Ban đầu, do phương thức học tập dựa trên sự truyền thụ cá nhân nên việc học chỉ phổ biến cho hoàng gia và một số người trong triều đình. Mặt khác, do chú trọng đến cái học huấn hỗ 訓 詁 學 nghiên cứu nghĩa chữ cổ, chú giải ý nghĩa kinh điển nên lúc này Nho giáo chỉ phù hợp với người có học vấn cao và không phổ biến nhanh chóng như Phật giáo mà chỉ hạn chế trong một bộ phận nhất định của giới thượng lưu. Thái tử Sotoku 聖 徳 太 子 574 – 622 đã dùng lí tưởng Nho học để xây dựng pháp luật và tư tưởng Nho giáo được thể hiện đầu tiên trong “Luật 17 điều” 憲 法 十 七 条 Kenpô jùshichi jô do nhà cách cách vĩ đại Shôtoku Taishi/Thánh Đức Thái Tử 聖 徳 太 子 574 – 622 soạn thảo công bố năm 604 đặt tư tưởng trung quân lên hàng đầu “nước không thể có hai vua, dân không thể có hai chủ” 7. Du nhập vào Nhật Bản, trong những buổi đầu Khổng giáo không phổ biến nhanh như Phật giáo mà chỉ hạn chế trong một bộ phận thuộc giới thượng lưu. Trong không gian của xã hội Nhật Bản và biệt lập, Nho giáo Trung Hoa đã không thể lan truyền mà không bị biến tướng. “Ngay từ đầu người Nhật ở mức độ nào đấy đã lĩnh hội các luận thuyết theo cách riêng của mình và vận dụng những luận giải khác về chúng. Cuộc cách mạng tôn giáo đã diễn ra một cách mau chóng, và có lẽ là vô ý thức, ngay trên boong của các con tàu đến từ Trung Quốc và Triều Tiên hay trên các bãi tắm tại các bờ biển Nhật Bản” [5]. Không chỉ tiếp thu Nho giáo từ Triều Tiên sang, triều đình Nhật Bản còn cử các đoàn sứ giả sang Trung Quốc giao lưu, học tập và tiếp thu Nho giáo qua thế giới quan của mình về truyền bá lại cho dân chúng. Sau cuộc cách tân Đại Hóa, Nhật Bản mô phỏng theo chế độ luật lệnh của nhà Tuỳ, Đường thì vị trí của Nho giáo trở nên quan trọng nhưng vẫn có sự hài hòa với Phật giáo thời kỳ Thái tử Sotoku. Từ cuộc cải cách Taika đến đầu thế kỉ VIII, hệ thống chính trị Nhật Bản mang màu sắc đơn thuần Khổng giáo gần như một bản sao của hệ thống chính quyền nhà Đường cho dù có một số điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Nhật Bản [6]. Từ đó, Khổng giáo trở thành bệ đỡ cho tư tưởng chính trị quốc gia và là kiến thức bắt buộc đối với những người tham chính.. Tuy nhiên, vào giai đoạn phát triển điển hình của chế độ phong kiến Nhật Bản, Khổng giáo lại có phần chìm lắng, nhường lại địa vị cao nhất cho Phật giáo Thiền tông. Đến thời Nara và giai đoạn đầu của thời Heian 平 安 時 代, Heian-jidai Bình An thời đại, 794 – 1185, Nho học phát triển mạnh mẽ trong tầng lớp quí tộc và tăng sĩ nhưng Khổng giáo vẫn còn nằm trong cấu trúc Tam giáo với sự ưu trội của Phật giáo. Sự phổ biến của Khổng giáo lúc này hầu như chỉ bó hẹp trong phạm vi cơ quan giáo dục cao nhất là Đại học liêu 大 學 僚 cùng một vài trường tư. Đến hậu kỳ trung đại là thời kỳ suy thoái của chế độ phong kiến thời kỳ Edo, TK XVII – 18688 và nảy sinh những mầm mống tư bản chủ nghĩa TBCN cùng với sự lên ngôi của tầng lớp thị dân ở các đô thị, Nho giáo đã thay thế cho Phật giáo trong đời sống và đẩy Phật giáo xuống vị trí khiêm tốn hơn. Học phái Chu Tử Chu Hi 朱熹, 1130-1200 được Mạc phủ khuyến khích và trở thành Nho giáo chính thống của nhà nước gọi là Quan Nho phái 官 儒 派. “Từ năm 1790 thuyết Chu Tử, đại biểu cho Nho học, được coi là triết học chính thống trong xã hội phong kiến Nhật Bản. Để duy trì hữu hiệu xã hội phong kiến về mặt luân lí, chính quyền phong kiến Mạc phủ cấm những học thuyết khác với thuyết Chu Tử” [15, Khổng học ngày càng trở nên nghiêm khắc hơn để chống lại dị học 异 學 – trào lưu tôn giáo từ phương Tây mang đến. Chuyển sang thời kỳ cận đại 1868-1945, Thiên hoàng Minh Trị 明 治 天 皇, Meiji-tennō lên ngôi tuyên bố bắt đầu công cuộc duy tân để đưa nước Nhật đuổi kịp các nước phương Tây. Lúc này, những nhà duy tân tự do thấy được hạn chế của Nho giáo nhất là Tống Nho đối với công cuộc cải cách đã khuyến khích thực học, tinh thần tự cường9. Trong khi đó, triều đình và những trí thức quý tộc tuy thấy được những bất cập của Nho giáo nhưng vẫn muốn sử dụng Nho giáo làm công cụ giáo dục đạo đức, lòng trung thành với Thiên hoàng, xây dựng đất nước Nhật Bản theo chủ trương phú quốc cường binh 富 国 強 兵/fukoku kyohei – nước giàu binh mạnh. Có thể thấy rằng do đặc thù sự biệt lập tương đối về địa lí, sự thuần nhất về văn hóa của Nhật Bản và không bị nước ngoài Trung Hoa đô hộ nên khác với nhiều nước Đông Á trong khu vực, những ảnh hưởng văn hóa từ Trung Hoa truyền vào Nhật Bản không phải bằng con đường cưỡng bức mà bằng chính thái độ tự nguyện và chủ động lựa chọn tiếp thu10. Những điều kiện đó đã giúp Nhật Bản có thể duy trì sự ổn định, tính bền vững xã hội và chủ động tiếp thu những luồng tư tưởng từ bên ngoài vào. II. Cải cách Minh Trị 1. Trung Quốc và Phương Tây sự lựa chọn của người Nhật giữa hai dòng nước Trong lịch sử, Trung Quốc từng được xem là cội nguồn trí tuệ của Nhật Bản Kyoto được thành lập từ TK VIII- thủ phủ chính trị của Nhật Bản trong suốt một ngàn năm, là một bản sao hoàn hảo của kinh đô Trường An 長 安 triều nhà Đường. Nhiều thi phẩm lớn của Nhật Bản được viết tại Trung Quốc. Đối với nam giới, học 學 đồng nghĩa với việc học ở Trung Quốc. Hầu như tất cả những giá trị văn hóa của người Nhật đều xuất nguồn từ Trung Quốc, từ truyền thống trồng lúa nước, chữ viết, các quan điểm Khổng giáo về trật tự quân thần và gia đình, cho đến các kỹ thuật sử dụng đồng và sắt. Dấu ấn của Khổng giáo cũng thể hiện rõ nét trong trật tự xã hội của Nhật Bản Lịch sử Nhật Bản đã khẳng định thần quyền của Thiên Hoàng là “Thiên mệnh Trời trao” 天 命 bất di bất dịch từ cổ chí kim và là quyền lực tuyệt đối. Là người nắm giữ quyền lực tối cao và quyết định mọi việc của đất nước luôn được đề cao, Thiên Hoàng được xem là con cháu của các vị thần và được suy tôn ở khắp mọi nơi; tất cả ý chí tinh thần của dân chúng đều nhằm phục vụ Thiên Hoàng. Với vị thế của mình, Thiên Hoàng là người có quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp song để thực hiện điều này còn phụ thuộc vào từng triều đại mà các Thiên Hoàng là đại diện. Ảnh hưởng của Nho giáo đến trật tự, quan hệ xã hội Nhật Bản còn biểu hiện ở sự phân chia các giai cấp tầng lớp khá rạch ròi. Nhật Bản cũng được cho là đất nước rất coi trọng con người và đạo đức, tính kỉ luật cao và sự cố kết cộng đồng chặt chẽ, có hệ thống kính ngữ 警 護, khiêm nhường ngữ 尊 敬 語 khá phức tạp11 những yếu tố này được xem như chìa khóa mở ra sự thành công và phát triển, giúp đất nước Hoa Anh đào vượt qua những thiên tai, khó khăn trong lịch sử. Những tư tưởng tu thân 修 身, chính danh 正名, tam cương ngũ thường 三綱五常 là những nền tảng để tạo lập trật tự xã hội, giữ gìn mối quan hệ giữa người với người; góp phần quan trọng vào việc duy trì một xã hội thịnh trị, ổn định và phát triển. Thông qua giáo dục, chính quyền muốn khẳng định địa vị của từng giai tầng, cá nhân trong trật tự xã hội. Ở Nhật Bản, tư tưởng Nho giáo có ý nghĩa tích cực làm cho con người ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong các mối quan hệ xã hội; là nhân tố quan trọng làm cho xã hội ổn định trật tự, có trên có dưới, từ đó tu thân để ngày một tốt hơn. Bên cạnh những nét văn hóa đặc sắc, chế độ giáo dục ở Nhật Bản thời kỳ Tokugawa cũng chịu ảnh hưởng nhiều mặt của nền văn minh Trung Hoa mà đặc điểm khá nổi bật là sự phân biệt đẳng cấp rất rõ rệt. Tuy nhiên, ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo cũng có những hạn chế, tiêu cực như tư tưởng tuyệt đối hóa vai trò của vua, hoàng đế, thiên hoàng, từ đó tạo ra tư tưởng bảo thủ, độc quyền độc đoán, tính giáo điều trở thành nếp trong suy nghĩ của người Nhật. Những tư tưởng khắt khe về lễ 禮, nghĩa 義, trung, hiếu 孝 đôi khi cũng là sợi dây bó buộc, kìm hãm sự triển của con người. Ngoài ra, một trong những vấn đề xã hội mà Nhật Bản chịu ảnh hưởng khá sâu sắc từ Nho giáo là vai trò, vị trí của người phụ nữ Tuy không chịu quá nhiều khuôn khổ hà khắc của Nho giáo phong kiến như phụ nữ Trung Quốc quê hương của Nho giáo nhưng so với nam giới, phụ nữ Nhật Bản vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi và có sự phân biệt nhất định12. Bên cạnh những ảnh hưởng của tập tục truyền thống khác về tín ngưỡng, tôn giáo như quan niệm về sự ô uế -kegare, những tư tưởng phân biệt quan hệ trong thang bậc đẳng cấp phong kiến, giới tính, trọng nam khinh nữ của Nho giáo đã tạo ra hố sâu ngăn cách, cản trở sự phát triển xã hội. Từ đầu TK X đến TK XIX tương ứng với thời kỳ Tống-Nguyên-Minh-Thanh, chế độ phong kiến Trung Quốc từ phục hưng chuyển sang giai đoạn suy vong. Cũng trong giai đoạn này, sự uy nghi của nền văn minh Trung Quốc dần dần suy yếu nhất là từ năm 1644 khi triều Minh sụp đổ và nhà Hán bị nước ngoài kiểm soát13. Đặc biệt, sang thế kỉ XIX, nội bộ Trung Quốc thối nát rõ rệt vua chúa chỉ lo hưởng thụ, quan lại hủ bại bất tài, quân đội cũng chỉ là quan liêu có đeo kiếm. Kinh tế sa sút, nội bộ mâu thuẫn là cơ hội tốt để các nước tư bản xâu xé Trung Quốc. Là quốc gia từng ở đỉnh cao của văn minh thời cổ đại, đã giậm chân tại chỗ trong thời kỳ Trung cổ, đã rơi xuống đáy vực của sự sa sút trong thời kỳ cận đại, Trung Quốc trở thành “Người mê ngủ phương Đông”, Đông phương thụy hám 東 方 睡 闞, Đông phương thụy sư 東 方 睡 狮, Chử lão hổ 楮 老 虎,..bị các nước phương Tây khinh rẻ, gọi là hổ ngủ, hổ giấy14. Không chỉ đứng ngoài “cuộc khiêu vũ của thế giới” Trung Quốc còn đứng trước nguy cơ bị “băm nát như quả dưa hấu” khi chỉ một số lượng ít ỏi các chiến hạm của nước Anh cũng đủ sức làm “bẽ mặt” nền văn minh vĩ đại của “Quốc gia trung tâm dưới gầm trời” trong cuộc Chiến tranh Nha phiến 鴉 片 戰 爭 1839-1842. Cùng với sự lạc hậu của quan hệ sản xuất, ý thức hệ Nho giáo ở trung tâm, chính quốc cũng lâm vào trì trệ, trở nên lỗi thời và Khổng giáo trở thành “Ông già bảo thủ của phương Đông”. Trải qua hơn 20 thế kỉ hình thành và phát triển, Nho giáo ở Trung Quốc cũng có lúc thịnh lúc suy, có lúc ngự trên đỉnh cao của hệ tư tưởng thống trị nhưng cũng có lúc bị phê phán không thương tiếc và bị coi là thứ “rác bẩn” cần phải loại bỏ. Để tồn tại, Nho giáo cũng đã phải trải qua nhiều thăng trầm biến cố củ lịch sử ở chính quê hương của nó15. Bàn về lễ giáo phong kiến, Fukuzawa Yukichi cho rằng “Trong học thuật cũ của Trung Hoa không gì bằng lễ nhạc. Lễ là để xui người ta cúi đầu phục tùng. Nhạc là để ru ngủ mọi nỗi bất bình uất ức của dân chúng để khiến cho người dân cứ mãi mãi thuận thụ dưới lũ hại dân”[8, Nhật Bản và nhiều nước phương Đông đã nhận ra rằng “Tư tưởng Nho giáo đã mệt nhoài rồi, nó chẳng còn ích dụng gì nữa. Giống như một miếng giấy bạc, không còn thể nào vuốt thẳng ra được nữa khi đã bị vò nhàu” [9, Trong khi đó, “Từ thế kỉ XVI, tư tưởng và học vấn phương Tây đến Nhật Bản đã mở ra cách nhìn mới cho người Nhật về thế giới, về thiên nhiên và tạo ra một nền kỹ thuật mới ở quốc gia này. Trong thời kỳ cai trị của Mạc phủ Tokugawa, các học giả ở hệ thống trường Quốc học kokugaku đã nỗ lực làm sống lại tinh thần dân tộc và nới lỏng dần những ảnh hưởng của Trung Quốc. Khi nền học vấn tương đối phát triển thì việc học tập của người Nhật không chỉ tập trung vào Nho giáo mà còn quan tâm đến tri thức phương Tây qua các môn học khác. Từ cuối thế kỉ XVIII, Nhật Bản xuất hiện phong trào “Lan học” Rangaku với mục đích học tập, tiếp thu khoa học kỹ thuật phương Tây bằng tiếng Hà Lan. Qua tiếng Hà Lan, họ đã dịch các sách về y học, văn học, kỹ thuật và những tài liệu dịch này có vai trò quan trọng giúp cho Nhật Bản tuy đóng cửa đất nước nhưng không bị tụt hậu quá xa so với các nước phát triển phương Tây đương thời. Cùng với phong trào học tập tri thức phương Tây ngày càng phát triển thì dư luận càng phê phán chính sách, chế độ đẳng cấp đã kìm hãm sự phát triển của cá nhân và xã hội” [10]. Nhờ Lan học và sau này là Tây phương học, với tinh thần cầu thị, người Nhật đã nhận ra rằng phải thay đổi chính sách nhương Di 攘 夷 – chống phương Tây bằng chính sách tích cực, linh hoạt, chủ động tiếp nhận thành tựu khoa học – kỹ thuật phương Tây. Theo thời gian, việc phổ biến văn hóa, kỹ thuật phương Tây được mở rộng sang hình thức bán công khai. Đồng thời “khi kiến thức của người Nhật Bản phát triển lên họ bắt đầu nhận ra rằng Trung Quốc không phải là trung tâm của thế giới, và họ cũng dần nhận ra những điểm yếu của Trung Quốc. Vì vậy mà họ nghĩ, “chúng ta nên bắt tay vào xác định vị trí của mình đi thôi” Ian Buruma. Theo David Pilling, sự cách ly khỏi Trung Quốc để định hình những giá trị Nhật Bản là một quyết định “đau đớn”, bởi hầu như tất cả những giá trị văn hóa của họ đều bắt nguồn từ Trung Quốc. Tuy nhiên, xu hướng trên đây cũng bị tác động chi phối của bối cảnh chính trị nước Nhật trong giai đoạn cận đại. Sau 250 năm thống trị, đến giữa thế kỉ XIX chế độ Mạc phủ Tokugawa lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng về mọi mặt. Về kinh tế, Nhật Bản vẫn là một nước nông nghiệp duy trì phương thức sản xuất lạc hậu dựa trên nền tảng phong kiến. Nông dân Nhật Bản phải chịu tô thuế nặng cộng với nạn mất mùa nên bị lâm vào cảnh đói kém, bần cùng. Trong khi nông nghiệp gặp nhiều khó khăn thì nhờ lợi thế hải cảng lớn, thương nghiệp ở Nhật lại bùng phát, thương nhân nhanh chóng phát giàu là cơ sở cho chủ nghĩa tư bản CNTB phát triển ở Nhật Bản. Về xã hội, Nhật Bản vẫn duy trì chế độ đẳng cấp với quyền bính do các đại danh 大 名/daimyo và võ sĩ Samurai hoàn toàn nắm giữ16. Tầng lớp tư sản công thương nghiệp ngày càng giàu lên nhưng không có quyền lực chính trị, lại bị đánh thuế nặng nên tạo ra xung khắc ngày càng lớn giữa tầng lớp thương nhân và giai cấp thống trị. Người nông dân bị áp lực của cả giới quý tộc và thương nhân. Về chính trị, nền phong kiến Nhật Bản lẽ ra phải do vua Nhật Thiên Hoàng quyết định nhưng trên thực tế thì Mạc phủ Tokugawa thao túng hoàn toàn. Vì vậy, phe bảo hoàng tôn quân rất bất bình và khơi dậy phong trào lật đổ Mạc phủ 幕 府, trao lại quyền bính cho triều đình Thiên Hoàng. Về đối ngoại, các nước tư bản phương Tây nhân lúc tình hình Nhật Bản rối ren đã gây áp lực đòi Nhật Bản phải thông thương. Mạc phủ Tokugawa theo đuổi chính sách Tỏa Quốc bài dương 鎖 国 俳 洋/Sakoku – nghĩa là “khóa đất nước lại” hay “khóa cửa biển lại” không cho người Tây phương ra vào, tuyệt đối không cho họ đặt chân đến Nhật. Trước thái độ cương quyết của Mạc phủ, năm 1853 Chính phủ Hoa Kỳ gửi bốn chiến thuyền Mississippi, Plymouth, Saratoga, và Susquehanna vào Vịnh Tokyo và trao tối hậu thư đe dọa sẽ nổ súng. Phó Đề đốc Matthew Calbraith Perry và “Những con tàu đen” đã chấm dứt chính sách ngăn cách thương mại với phương Tây của Mạc phủ Tokugawa sự xuất hiện của phương Tây được cho là một sự thách thức với truyền thống và giá trị cổ truyền Nhật Bản. Sau một loạt hiệp ước bất bình đẳng với các nước đế quốc phương Tây và trước tình hình khủng hoảng dân tộc cũng như mâu thuẫn gay gắt trong ngoài, Nhật Bản đứng trước hai lựa chọn Một là, giữ nguyên lề lối cổ truyền phong kiến và địa vị của Mạc phủ nhưng có nguy cơ mất nước vì bị ngoại bang đô hộ. Hai là mở một cuộc canh tân toàn diện nhằm học hỏi, tiếp thu kiến thức của phương Tây để chuyển mình thành một đất nước hùng mạnh, sánh vai với các cường quốc phương Tây. Trong bối cảnh thập niên 60 của thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh chống Mạc phủ Tokugawa bùng nổ khắp nơi với sự lãnh đạo của các đại danh nổi dậy chống lại Chinh di Đại tướng quân Sogun. Cuối cùng, chế độ Mạc phủ bị giải thể 12/1867 và dưới khẩu hiệu tôn vương nhương di 尊 王 攘 夷/sonno joui một số võ sĩ cấp tiến có đầu óc cải cách phần lớn không có nguồn gốc thế tập cùng với quý tộc ở triều đình đã nhân cơ hội nắm lấy quyền lãnh đạo đất nước và tiến hành các cải cách. Ngày 03/01/1868, chính quyền mới do Thiên Hoàng Minh Trị bổ nhiệm được thành lập Sự kiện này được gọi là vương chính phục cổ 王 政 復 古 – nghĩa là quyền vua trở lại như xưa. Giai cấp tư sản chưa được tham gia chính quyền nhưng chế độ mới tạo điều kiện cho CNTB phát triển nên họ ủng hộ chính quyền mới và thời kỳ Minh Trị – “sự cai trị sáng suốt” ở Nhật Bản bắt đầu. 2. Minh Trị Duy Tân tiến trình, nội dung cơ bản Minh Trị Duy tân 明 治 維 新/ Meiji ishin/Meiji Restoration 1868 -1912 còn gọi là Cải cách Minh Trị là một chuỗi các sự kiện cải cách, cách tân dẫn đến các thay đổi to lớn trong cấu trúc xã hội và chính trị của Nhật Bản17. Người Nhật đã nêu đã nêu cao chủ trương Hòa thần Dương khí 和 神 陽 氣 tinh thần Nhật Bản, tinh hoa phương Tây, khích lệ mọi người dân dốc sức học hỏi các nền văn minh mới. Từ một đất nước “đóng cửa” và chịu nhiều ràng buộc của các hủ tục lạc hậu, dân tộc Nhật trước hiểm họa xâm hấn của phương Tây, đã đứng lên cải cách trên nền tảng của đổi mới tư duy, thể hiện qua 5 lời thề thiêng liêng của Chính phủ 5 lời tuyên thệ của Thiên Hoàng Minh Trị khi lên ngôi18 là “Mở ra hội nghị rộng rãi, trăm công nghìn việc đều lấy theo công luận để quyết định”; “Trên dưới một lòng, ra sức sửa sang việc nước; Văn võ một đường, từ công khanh đến thứ dân, đều được toại chí, khiến cho lòng người hăm hở sốt sắng; Thảy bỏ hết mọi thói hư, mối tệ chất chứa lâu đời, từ đây gắng gổ duy tân tự cường, hiệp theo công đạo của trời đất; Cầu tri thức ở thế giới, làm cho nước nhà trở nên mạnh lớn vẻ vang… Rồi thề sao làm vậy, 5 lời thề này chính là chí nguyện, quy mô và chính sách của vua Minh Trị sửa sang thay đổi nước Nhật, trước sau có chừng 30 năm, là trở nên một quốc gia văn minh, một dân tộc hùng cường, đứng ngang hàng với các nước u-Mỹ” [11, Cuộc cải cách đã đưa nền kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh mẽ trong 30 năm cuối thế kỉ XIX, Nhật Bản trở thành một cường quốc quân sự vào năm 1905. Nhờ vậy, Nhật Bản đã phát triển đất nước theo con đường hiện đại hóa và tránh được sự xâm lược của các nước phương Tây vào thời Cận đại. Cải cách Minh Trị là sự kiện mang ý nghĩa bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Nhật Bản mở đầu cho tiến trình hiện đại hoá và công nghiệp hóa kéo dài từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, đưa Nhật Bản phong kiến từng bước trở thành một quốc gia độc lập, TBCN hiện đại, giàu có và hùng mạnh trong khu vực. Thiên hoàng Minh Trị 3/11/1852- 30/7/191219 sau quá trình lên ngôi và lật đổ chế độ Mạc phủ đầy sóng gió, dời đô từ Kinh đô京都/Kyoto về Đông kinh 東京/Tokyo – tức thành Giang Hộ của Mạc phủ Đức Xuyên trước đây và đặt niên hiệu mới. “Hoàng tử Mutsohito đã sớm nhận thấy thực trạng suy kiệt, bi đát của đất nước cũng như nhận thấy nguy cơ của chủ nghĩa thực dân phương Tây đang ngày càng hiển hiện, đe dọa nền độc lập dân tộc. Trước tình hình đó, ông cùng với những người theo chủ nghĩa dân tộc cấp tiến quyết tâm đưa đất Nhật trở nên hùng mạnh. Biểu hiện đầu tiên của quyết tâm này là ngay sau khi lên ngôi, Mutsohito đã lấy niên hiệu là Minh Trị 明 治/Meiji – tức nền chính trị sáng suốt [12]. Vị Hoàng đế- chủ soái của cuộc cải cách, người đặt nền móng cho sự “Thần kỳ Nhật Bản” đã tiến hành các cuộc cải cách đồng bộ và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội Về giáo dục, cải tổ nền giáo dục được đặc biệt quan tâm chú trọng. Nhiều cải cách quan trọng về giáo dục được thi hành trong đó có việc thành lập các trường Đại học để đào tạo tầng lớp lãnh đạo chính quyền và kinh doanh. Năm 1872 học chế được Bộ Giáo dục ban bố, bắt đầu một giai đoạn phát triển mới trong nền giáo dục Nhật Bản. Thi hành chế độ giáo dục cưỡng bức với việc mởra các hội truyền bá kiến thức học thuật, dịch thuật, văn hóa, khoa học, báo, thư viện. Đưa những thành tựu khoa học kỹ thuật vào giảng dạy và áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc. Các môn học được chuyển chủ yếu từ học thuộc Kinh Sử sang Khoa học-Kỹ nghệ-Thương mại, áp dụng mô hình tự trị-tự chủ đại học theo hình mẫu phương Tây và cho phép tư nhân được mở trường học. Chất lượng dạy học cũng như chương trình chịu ảnh hưởng Hoa Kỳ và phương Tây nhiều mặt20. Triều đình cũng cho du học sinh sang các nước phương Tây học về hệ thống chính trị, quân sự, kinh tế, tiếp thu khoa học kỹ thuật. Thiếu nhi từ 6-14 tuổi đều bắt buộc phải học tập và được triều đình chi trả 100% các khoản phí giáo dục với các môn học được áp dụng theo hình mẫu phương Tây. Với mong muốn đuổi kịp tri thức và tư tưởng phương Tây, “Văn minh khai hóa” 文 明 開 化/ bunmei kaika dẫn truyền tinh thần và tri thức hiện đại hóa. Chỉ trong vòng 2- 3 thế hệ, nước Nhật đã từ chỗ coi trọng thân phận con người theo nguồn gốc dòng dõi đã chuyển sang cất nhắc cán bộ theo trình độ giáo dục tân học và năng lực thực tế21. Hoàng đế Minh Trị cho rằng, công cuộc duy tân muốn thành công thì trước hết phải nâng cao trình độ hiểu biết của người dân để họ hiểu và tham gia tích cực vào sự phát triển của đất nước, đáp ứng được những đòi hỏi của tình hình mới. Bên cạnh những yếu tố tích cực của nền giáo dục truyền thống, ông kiên quyết loại bỏ những hạn chế và những sai lầm không đem lại lợi ích cho sự tiến bộ của nước Nhật. Chính sách coi trọng đào tạo nguồn nhân lực được đề xuất từ thời kỳ Minh Trị và được thể hiện rõ nét ở chú trọng phổ cập giáo dục phổ thông đặc biệt là các cấp tiểu học được hình thành từ các trường học trong nhữngngôi chùa do các nhà sư dạy dỗ. Kết quả của thực hiện chính sách này làkiến thức chung của người Nhật Bản đã được nâng cao, làm cơ sở cho giáo dục phổ thông trung học và đại học. Thời kỳ này Nhật Bản cũng diễn ra một chuỗi các sự kiện đổi mới như mở cửa toàn diện, kêu gọi u hóa, khuyến khích học tiếng Anh, chuyển sang dùng lịch Tây… Về chính trị – xã hội, để tận dụng ưu thế trung tâm chính trị của Giang Hộ Edo, triều đình Minh Trị đã đổi tên Giang Hộ thành Đông Kinh Thủ đô ở phía Đông và dời dô về đó. Nhằm khai thác tâm lí lo sợ Nhật Bản sẽ trở thành thuộc địa của phương Tây để khích lệ tinh thần canh tân, Người Nhật trở nên nhiệt tình với “văn minh và khai hóa” phương Tây. Triều đình còn đưa ra khẩu hiệu “phú quốc cường binh” và Thiên Hoàng tuyên bố từ bỏ những tập tục có hại và sẵn sàng học hỏi phương Tây. Cơ sở hạ tầng được quan tâm phát triển. Nhiều phái đoàn được cử sang phương Tây học hỏi về cách thức quản lí hành chính và kỹ thuật. Nhiều chuyên gia phương Tây được mời tới Nhật Bản để phổ biến kiến thức và kỹ thuật. Để xóa quyền lực của các đại danh, năm 1871 triều đình đã thực hiện phế phiên, lập huyện 藩 置 県/haihan-chiken để xóa quyền lực của các đại danh, bãi bỏ hệ thống lãnh địa và danh hiệu của các đại danh. Đồng thời tuyên bố “tứ dân bình đẳng” shimin byôdô – nghĩa là bốn tầng lớp gồm võ sĩ, nông dân, thợ thủ công và thương nhân giờ đây không còn bị phân biệt22. Chính phủ được tổ chức theo kiểu châu u, tòa án mới được thành lập theo kiểu tư sản phương Tây. Triều đình cũng bỏ âm lịch theo lịch dương và bỏ y quan cũ theo mới. Năm 1889, Hiến pháp mới 大 日 本 帝 國 憲 法/Nippon Teikoku Kenpō? được ban hành, quy định Nhật Bản là một quốc gia quân chủ lập hiến, thành lập Chúng nghị viện 衆 議 院 /Shugiin, mở đường của sự kết hợp truyền thống với hiện đại của văn hóa pháp luật Nhật Bản và đánh dấu sự ra đời của nhà nước Nhật Bản hiện đại. Thời kỳ Minh Trị Duy Tân, Nhật Bản là quốc gia đầu tiên của châu Á đã vận hành đất nước bằng hệ thống Hiến pháp. Cải cách Minh Trị Duy Tân là một biến đổi chính trị rất lớn đã kết thúc một giai đoạn lịch sử hơn 700 năm dưới sự thống trị của dòng họ võ sỹ tại Nhật Bản. Đây là kết quả của một quá trình đấu tranh, chuyển hóa xã hội diễn ra hết sức nhanh chóng trên quần đảo Nhật Bản với vai trò quan trọng của các võ sỹ có vị thế thấp trong việc xóa bỏ chế độ cầm quyền của chính tầng lớp võ sỹ hệ thống phong kiến tản quyền tại các địa phương. Về kinh tế, xóa bỏ chế độ độc quyền về ruộng đất của giai cấp phong kiến, thống nhất tiền tệ, phát triển kinh tế TBCN ở nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông. Triều đình còn ban bố quyền tự do buôn bán kể cả ruộng đất và đi lại, thiết lập chế độ tiền tệ thống nhất đồng Yên 円/えん/en-Yen ¥ -JPY, xây dựng cơ sở hạ tầng nhất là đường sắt và phát triển CNTB đến tận các vùng nông thôn triều đình còn ra lệnh phế đao 废 刀 令 không cho người dân tự ý mang đao kiếm. Sự phát triển của kinh tế Nhật Bản đã làm xuất hiện các công ty độc quyền với các nhà tài phiệt thao túng nền kinh tế và chính trị Nhật Bản. Cải cách Minh Trị đã dẫn đến quá trình công nghiệp hóa, đưa nền kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh mẽ trong 30 năm cuối của thế kỉ XIX và mở đường cho nước Nhật Bản phong kiến thành quốc gia hùng mạnhtrên thế giới. Về quân sự, quân đội được tổ chức và huấn luyện theo kiểu phương Tây, như lục quân theo mô hình lục quân Đức, hải quân theo mô hình hải quân Anh, các công xưởng và nhà máy vũ khí theo mô hình công binh Pháp, hệ thống hậu cần học thì hỏi rất nhiều từ Hoa Kỳ. Quân đội Nhật Bản áp dụng chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng binh, tăng cường mua và sản xuất vũ khí, đạn dược. Cùng với thành lập trường đại học lục quân chuyên về quân sự, Nhật Bản cũng chủ trương mời các giảng viên quân sự nước ngoài về để giảng dạy và đưa các sinh viên sĩ quan đến một số nước phương Tây Anh, Pháp,… học tập. Về tôn giáo, Thần đạo thay thế cho Phật giáo trở thành Quốc đạo của Nhật Bản. Thần đạo mang tư tưởng chủ nghĩa yêu nước và tôn sùng Thiên Hoàng như một trong những vị thần. Công cuộc Minh Trị duy tân phá cũ đổi mới trong 30 năm vừa mau chóng mạnh bạo, vừa vĩ đại hoàn toàn, như Minh Trị Thiên Hoàng đã thề với trời đất thần minh và dốc lòng thực hiện, từ chính trị văn hóa giáo dục, quân sự, công thương, lí tài, cơ khí, nghệ thuật, cho đến những chuyện y phục tầm thường, tập quán lặt vặt, chẳng sót một vấn đề nào hay một phương diện nào mà không hóa xưa theo nay, đổi cũ ra mới. Từ một quốc gia phong kiến lạc hậu, bên trong thì chia cắt bên ngoài thì bị các quốc gia khác chèn ép, sỉ nhục, chỉ trong ba thập kỉ, bao nhiêu dấu cũ lệ xưa của Nhật Bản đều bị xóa hết nhường chỗ cho văn minh mới phương Tây. “Sự thay cũ đổi mới của Nhật Bản mau lẹ quá chừng, ai cũng phải kinh hoàng sửng sốt. Mỗi việc nhỏ lớn gì cũng phải tạo lập ra mới mẻ hết thảy,… không có cơ quan chế độ nào hữu ích của phương Tây mà Nhật không làm theo. Xe lửa, tàu thủy, nhà băng, xưởng máy cùng là mọi việc giáo dục, công nghệ, khoa học… thứ nào Nhật Bản cũng tổ chức ra có đủ hết thảy trong một lúc” [11, Cuộc cải cách lớn do triều đình Thiên Hoàng thực hiện đã dẫn đến những thay đổi lớn lao đưa nước Nhật thoát khỏi chế độ phong kiến và sự lệ thuộc vào các nước phương Tây, tiến lên CNTB và trở thành Đại đế quốc duy nhất ở phương Đông đủ sức cạnh tranh với Nga, Anh, Hoa Kỳ, Đức – những cường quốc hàng đầu trên thế giới. Công cuộc cải cách toàn diện, cơ bản về mọi mặt do triều đình Minh Trị khởi xướng và lãnh đạo, có ý nghĩa mở đường đưa nước Nhật Bản phong kiến thành một nước TBCN, lần lượt chiến thắng Trung Quốc và Nga trong các cuộc Chiến tranh Giáp Ngọ Chiến tranh Nhật-Thanh 日 清 戦 争/Nisshin Sensō, Jiawu 1894 – 895 và đánh bại Hải quân Hoàng gia Nga năm 1905 hai cuộc chiến tranh giúp Nhật Bản “thoát Á, nhập u”, trở thành một cường quốc quân sự23. Cải cách Minh Trị được xem là thời kì quá độ từ chế độ phong kiến sang CNTB, đưa Nhật Bản phát triển theo mô hình các nước tư bản, thoát khỏi số phận một nước thuộc địa hay nửa thuộc địa24. Tuy nhiên, Minh Trị Duy Tân cũng được xem là cuộc cách mạng tư sản không triệt để bởi không do giai cấp tư sản lãnh đạo, không xóa bỏ hoàn toàn sự thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến. III. Tư tưởng khai sáng – ngọn hải đăng dẫn đường cuộc cách mạng Thế giới được hướng dẫn bởi tư tưởng và cách mạng trong tư tưởng luôn là màn dạo đầu cho những biến đổi trong thực tiễn. Để tránh gặp phải số phận tương tự nhưTrung Quốc và các nước châu Á lúc đương thời, Nhật Bản đã tiếp nhận nền văn minh phương Tây và đoạn tuyệt với nguồn gốc châu Á của mình. Thành quả vĩ đại của cuộc Minh Trị Duy Tân được cộng hưởng từ nhiều yếu tố, trong đó không thể không kể đến vai trò của Fukuzawa Yukichi/Phúc Trạch Dụ Cát 福 澤 諭 吉/ふく ざわ ゆきち25, một trong những nhà tư tưởng lớn- -“bác sĩ bắt mạch chính trị” – chủ soái cuộc cải cách có công khai sáng phong trào canh tân để hình thành nên đất nước Nhật Bản hiện đại. Từ thực tiễn trải nghiệm phong phú của bản thân trong bối cảnh thời đại đầy biến động, sớm giác ngộ những giá trị và sức mạnh của văn minh phương Tây cùng với sự nhạy bén thời cuộc và ý thức sâu sắc trách nhiệm của người công dân, người trí thức chân chính đối với đất nước, Fukuzawa đã dành toàn bộ cuộc đời mình cho việc tìm kiếm những tư tưởng cải cách đất nước. Ông đã tập trung suy nghĩ, biện giải, tìm tòi cho ra đời học thuyết Thoát Á Luận 脱 亜 論/isa訳/Good bye Asia- chủ trương thoát khỏi Châu Á26 nổi tiếng làm nền tảng của công cuộc Minh Trị Duy Tân, đưa nước Nhật thoát khỏi nguy cơ lệ thuộc và phát triển sánh vai với các cường quốc phương Tây, trở thành đỉnh cao trí tuệ của phong trào cải cách và là cánh chim én đón Xuân của xứ sở Hoa Anh đào Người phương Tây coi ông như “Voltaire của đất nước Mặt Trời mọc”. Nội dung chính của bài “Thoát Á luận” nổi tiếng này cũng là chủ trương của Fukuzawa Yukichi được tóm gọn trong hai chữ “Thoát Á” – Nghĩa là thoát khỏi vòng kiềm tỏa của nền văn hóa tiểu nông, cổ hủ lạc hậu, nặng về hình thức giả tạo bên ngoài của các nước châu Á điển hình là Trung Quốc để học theo nền văn minh phương Tây và hội nhập với thế giới bên ngoài. Theo đó, nước Nhật từ bỏ những cản trở có nguồn gốc từ truyền thống Á châu trên con đường tương lai của mình. Theo Fukuzawa, không thể để Nhật Bản bị nền phong kiến Trung Hoa và Hàn Quốc làm cho trì trệ, và nên “thoát khỏi vòng tư tưởng của các quốc gia châu Á mà gia nhập với các quốc gia văn minh phương Tây thoát Á nhập u. Bài luận nổi tiếng này đã khơi nguồn cho dòng tư tưởng Khai sáng27 của Nhật Bản và trở thành nền tảng tinh thần của cuộc Cải cách Minh Trị. Nhờ chủ trương này, cùng với sự triển khai thành công của phong trào Duy Tân, Nhật Bản đã hình thành được một hệ thống các thang giá trị mới và hội nhập được với bên ngoài, giúp cho nước Nhật không chỉ giữ được độc lập mà còn trở thành một cường quốc về kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật sau này. Được tiếp xúc với văn minh phương Tây qua sách vở và những chuyến viếng thăm và châu Âu vào cuối thế kỉ XIX, Fukuzawa nhận thức được tiến bộ của văn minh phương Tây những nước phát triển hơn châu Á về nhiều mặt và các nước châu Á khó có thể duy trì được nền độc lập nếu vẫn đóng cửa trước văn minh phương Tây. Theo ông, giành được quyền tự trị chưa phải đã là độc lập, mà nền độc lập thật sự chỉ có thể thành hiện thực khi trở thành một quốc gia tiên tiến và văn minh. Và nếu không có sự khai sáng và văn minh thì nền độc lập giành được cũng mau chóng mất đi và lại lệ thuộc vào các quốc gia tiên tiến khác. Nhận thức được tình trạng các nước trong khu vực châu Á mới chỉ ở mức “bán văn minh”, không thể là tấm gương cho Nhật Bản học hỏi, vì vậy Fukuzawa kêu gọi nước Nhật hãy “tách ra khỏi hàng ngũ các nước châu Á, đuổi kịp và đứng vào hàng ngũ các nước văn minh phương Tây” [13]. Ông chủ trương mở cửa giao thương với phương Tây, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm quản lí xã hội của phương Tây để phát triển Nhật Bản28. Fukuzawa tin rằng giáo dục là cách duy nhất để đạt tới văn minh, bởi bản chất của văn minh là sự phát triển kiến thức và đạo đức nội tại của dân tộc “phải có đầy đủ cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần thì mới có thể gọi là văn minh. Tuy nhiên, sự tiện nghi về mặt vật chất cũng như sự cao thượng của tinh thần con người thì không hề có giới hạn. Vì vậy gọi là “tiện nghi” hay “cao thượng” thì phải nghĩ đó là nói đến trạng thái tiến bộ để hướng tới một trình độ cao hơn. Và bởi vì tri thức và đạo đức là động lực của sự tiến bộ này, nên kết cục có thể nói văn minh chính là sự tiến bộ của tri thức và đạo đức của con người” [14, 96]29. Theo Fukuzawa, nền giáo dục Nho học Kangaku truyền thống ở Nhật Bản là sự cản trở lớn nhất của nền văn minh nó vừa cổ hủ vừa chậm phát triển, hàng nghìn năm vẫn không thay đổi, chỉ coi trọng hình thức bên ngoài giả tạo mà coi thường chân lí và nguyên tắc. Số lượng người đi học đã ít ỏi, lại chỉ được dạy đọc/viết mà không được khuyến khích phát triển tư duy sáng tạo và độc lập phê phán kịch liệt lối học từ chương, trích cú trước đây. Fukuzawa cho rằng, giáo dục là chìa khóa của văn minh, cốt lõi của giáo dục là thực học và tính hiệu quả của nền giáo dục cần đáp ứng yêu cầu của mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội. Mục tiêu quan trọng của giáo dục là hình thành nhân cách độc lập, bởi vì “Nền văn minh của quốc gia không thể trông cậy vào quyền lực của chính phủ mà phải quan tâm đến từng người dân. Mỗi người dân phải có trách nhiệm với việc bảo vệ, gìn giữ nền độc lập của đất nước” [15, Ông cũng đưa ra nguyên tắc nổi tiếng “Độc lập quốc gia thông qua độc lập cá nhân” National independence through personal independence, tức là một xã hội muốn phát triển phải dựa trên những cá nhân có khả năng tư duy độc lập và sáng tạo individual strength – tự tin vào sức mạnh cá nhân, chứ không phải dựa vào chính phủ30. Nguyên tắc cơ bản của giáo dục là phải kết hợp khoa học phương Tây với đạo đức phương Đông. Ông kêu gọi các sĩ phu Nhật Bản làm việc theo phương châm “Coi trọng quốc gia và coi nhẹ chính phủ” [13], tự tin vào sức mạnh cá nhân mà không phụ thuộc vào sức mạnh của người khác. Mỗi người trong xã hội, từ các học giả uyên bác, những viên chức nhà nước địa vị cao đến những nông dân nghèo và những người buôn bán nhỏ đều có thể đi học để thực hiện tốt hơn chức năng riêng của mình, từ đó đóng góp sức mình vào phát triển xã hội, chứ không nhất thiết phải học để ra làm quan theo lối suy nghĩ truyền thống của Nho học hủ lậu tư tưởng Khai sáng của Immanuel Kant. Người dân hãy theo đuổi nền giáo dục thực học của phương Tây, dựa trên nền tảng khoa học và kỹ thuật. Phê phán nền giáo dục Nho học chú trọng cổ văn nhưng coi thường kiến thức thực tế của Trung Hoa và Triều Tiên, Fukuzawa Yukichi cho rằng 2 nước này “suốt hàng nghìn năm không hề thay đổi và vẫn quyến luyến với những phong tục tập quán cũ kĩ, khi bàn luận về giáo dục thì lên tiếng giữ gìn nền giáo dục Nho học, chỉ biết trích dẫn những lời giáo huấn “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí”, chỉ coi trọng hình thức bên ngoài giả tạo mà coi thường chân lí và nguyên tắc, mê tín hủ lậu không biết khoa học là gì lại còn kiêu căng tự phụ”[13]31. Với con mắt đại bàng, Fukuzawa Yukichi nhận thấy “Đường giao thông trên thế giới là phương tiện để làn gió của văn minh phương Tây thổi vào phương Đông. Khắp mọi nơi, không có cỏ cây nào có thể ngăn được làn gió văn minh này”[13]. Ông đã nhìn ra cái không gian bí bách, “cổ lai hi” và đáng “xấu hổ” của Á châu mà cổ vũ người Nhật thực thi tư tưởng thoát Á. Sớm thức tỉnh trước nguy cơ mang tính thời đại để nhanh chóng tiếp nhận nền văn hóa phương Tây với tính ưu việt của nó trên các lĩnh vực công nghiệp, khoa học kỹ thuật, sự hùng cường về cả kinh tế và quân sự; cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân mặc dù cách đây 150 năm nhưng vẫn được các học giả trong và ngoài Nhật Bản nhắc đến như một mốc son đưa quốc gia này trở thành cường quốc ngang hàng với các nước tư bản u – Mỹ cuối thế kỉ XIX. Cuộc cải cách toàn diện này đã tạo ra những tiền đề thuận lợi cho sự giải phóng những tiềm năng khổng lồ của đất nước “Mặt trời mọc”. Bản chất của 30 năm Duy tân Minh Trị là quá trình dân tộc Nhật Bản nhìn văn minh Châu Âu để tự khai sáng tinh thần cho chính mình. Từ bài học thức tỉnh về “Thoát Á luận”, Nhật Bản đã “thoát Á” thành công khi biết phát huy tinh thần quả cảm, dám xả thân của các võ sĩ đạo, biết giữ lấy những giá trị đạo đức thuần túy “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín” của Khổng giáo trong khi loại bỏ phần chính trị và các thiết chế bắt nguồn từ đó, nhất là hệ thống thi cử từ chương đã đè nặng trong lịch sử. Cuộc cải cách đã thu được thành công và tiếng vang lớn, tạo cơ sở vững chắc giúp Nhật Bản phát triển xứng tầm một nước văn minh, hiện đại, có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới. Cuộc cách mạng trong tư tưởng luôn là màn dạo đầu của cuộc cách mạng trong thực tiễn. Đối với Nhật Bản, cách ly/cắt đứt mối liên hệ về mặt tư duy với Trung Quốc và chuyên tâm vào nỗ lực hiện đại hóa đất nước, hội nhập với phương Tây là một quyết định dũng cảm và đầy lí trí. Người Nhật đã ý thức được rằng Điều quan trọng nhất là phải thoát khỏi cái văn hóa của Trung Quốc tức là văn hóa Khổng giáo. Cái văn hóa đó nó tha hóa người trí thức, nó không nhìn nhận sự suy nghĩ và hành động độc lập của cá nhân như là một giá trị. Trái lại nó coi cái chữ “trung” trung thành với nhà cầm quyền như một giá trị cơ bản”. Trên nền của tư duy lí, người Nhật Bản đã sớm nhận thức được rằng suy cho cùng, phát triển chỉ đạt được từ đổi mới và sáng tạo. Và những cản trở đáng kể nhất cho sự đổi mới và sáng tạo là những cản trở nội tại, nằm ngay trong chính bản thân mình để giải phóng năng lực mọi mặt của đất nước cho phát triển, đương đầu và thích nghi được với một thế giới đầy biến động và thay đổi không ngừng. Và quan trọng hơn không sa vào những bẫy vô hình, do sự vô tình hay cố ý của con người hoặc ngẫu nhiên của lịch sử tạo ra. Với tư duy đi trước thời đại, người Nhật cũng tỉnh táo nhận ra rằng “Thoát Á” hay “thoát Trung” nghĩa là thoát cái quê mùa lạc hậu, hạn chế của các nước châu Á nhưng vẫn giữ lại cái gốc tinh hoa của mình trong văn hóa Khổng giáo; du nhập khoa học kỹ thuật của Tây phương nhưng vẫn giữ bản sắc của Nhật Bản. Triều đình và những trí thức Nhật Bản, một mặt đã nhận thức được những hạn chế của nền giáo dục Nho giáo trong thời kỳ mới, mặt khác họ vẫn thấy được giá trị của Nho giáo trong việc giáo dục đạo đức, nhất là giáo dục lòng trung thành, xây dựng đất nước Nhật Bản theo chủ trương “nước giàu binh mạnh”. Trong bối cảnh của nước Nhật thế kỉ XIX, những tư tưởng cải cách của Fukuzawa Yukichi hết sức sâu sắc, thiết thực, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn lịch sử Nhật Bản lúc đương thời và đóng vai trò quan trọng, tạo tiền đề tư tưởng cho công cuộc Duy Tân Minh Trị. Thoát Á luận của Yukichi trở thành tác phẩm làm thay đổi lịch sử nước Nhật, thay đổi tư duy của cả một dân tộc để xây dựng nước Nhật hiện đại và cho thấy sự mạnh mẽ, vĩ đại của một dân tộc đã dũng cảm không chịu đầu hàng số phận và dám đối mặt với những thách thức của lịch sử để vươn lên hàng đầu thế giới. Kinh nghiệm lịch sử cũng cho thấy trước mỗi giai đoạn có tính bước ngoặt, lịch sử luôn đặt ra cho mỗi quốc gia-dân tộc những nhiệm vụ chiến lược và thách thức to lớn; đòi hỏi sự quyết tâm, ý chí, sự chung sức đồng lòng thậm chí là sự hy sinh của cả một dân tộc để vượt qua và tiếp tục đi lên. Để đưa công cuộc Cải cách Minh Trị thành công, người Nhật đã sớm thức tỉnh yêu cầu phải vượt qua những tư tưởng nhận thức lạc hậu để đón nhận những tư tưởng mới, tiến bộ, hiện đại và tư duy phát triển để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, tụt hậu và thông qua những chính sách cải cách tiến bộ để giải phóng năng lực mọi mặt của đất nước. Vấn đề đổi mới tư duy nhận thức về hội nhập và phát triển được người Nhật xác định là khâu đột phá, có ý nghĩa mở đường cho những biến đổi xã hội mạnh mẽ thời kỳ Minh Trị. Đồng thời, tư tưởng cải cách, tiếp thu văn minh nhân loại đi đôi với giữ gìn, phát huy giá trị tinh hoa của dân tộc; kết hợp tinh hoa nội ngoại để xây dựng, phát triển đất nước của Nhật Bản vẫn là bài học cho các quốc gia trên con đường hiện đại hóa, xây dựng phát triển đất nước hôm nay. Tài liệu tham khảo [1] Lý Minh Tuấn, Tứ thư bình giải, NXB Tôn giáo, 2011. [2] Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Kim, “Một số chuyên đề lịch sử thế giới”, tập 2, NXB. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2008. [3] Fukuzawa Yukichi, Phúc Ông tự truyện Phạm Thu Giang dịch, giới, 2017. [4] Lược sử văn hóa Nhật Bản, tập 2, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989. [5] Trung Quốc cận đại giản sử, NXB. Nhân dân Thượng Hải, 1975. [6] Phan Đại Liên, Lịch sử Nhật Bản, NXB. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1995. [7] Fukuzawa Yukichi, Phạm Hữu Lợi dịch, “Khuyến học” hay những bài học về tinh thần độc lập tự cường của người Nhật Bản, Nxb Iwanami Bunko Tri thức và phát triển, NXB Trẻ, 2017. [8] Vũ Khiêu, Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997. [9] Francois Jullien, Nguyên Ngọc dịch, Minh triết phương Đông và Triết học phương Tây hay thể tạng khác của Triết học, editions du Seuil, Février, 1998. [10] Nguyễn Thị Hồng Vân, Cơ cấu xã hội Nhật Bản thời Cận thế, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 4/2009. [11] Đào Trinh Nhất, Nhật Bản Duy Tân 30 năm, Đông Phương xuất bản, Sài Gòn, 1936. [12] Liên hiệp Các Hội KH&KT Việt Nam, Tạp chí Nhà quản lí, 279/2005. [13] Fukuzawa Yukichi, Hải u, Kuriki Seiichi dịch “Thoát Á luận”, 1885. [14] Fukuzawa Yukichi, Lê Huy Vũ Nam, Nguyễn Anh Phong dịch, Bàn về văn minh First published in 1875; NXB. Thế giới, 2018. [15] Fukuzawa Yukichi, Phạm Hữu Lợi dịch, Khuyến học hay những bài học về tinh thần độc lập tự cường của người Nhật Bản, NXB. Iwanami Bunko Tri thức và phát triển, NXB. Trẻ, 2017. Nguồn Fanpage Luật sư Online
Một trong những cuộc cải cách lớn nhất của Nhật Bản những năm cuối Thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX phải kể đến cuộc Duy Tân Minh Trị được thực hiện bởi Thiên Hoàng Minh Trị vào năm 1868. Cuộc cải cách về mọi lĩnh vực này đưa Nhật Bản bước vào một thời kỳ mới. Dưới đây là các nội dung phân tích về nội dung, tính chất, ý nghĩa lịch sử liên quan đến cuộc Duy Tân Minh Trị Đang Xem 7 nội dung của cuộc duy tân minh trị hay nhất, đừng bỏ qua Luật sư tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài Trước khi tìm hiểu nội dung của cuộc Duy Tân Minh Trị thì điều đầu tiên chúng ta cần biết chính là nguyên nhân của cuộc Duy Tân Minh Trị này. Nguyên nhân phải kể đến bối cảnh đất nước của Nhật Bản lúc bấy giờ. Đầu thế kỷ XIX, Mạc phủ đứng đầu là tướng quân Sô gun. Khi nắm quyền, thời kỳ này Sô gun khiến Nhật Bản rơi vào tình trạng khủng hoảng vì chế độ phong kiến. Mạc phủ liên tục ký kết các hiệp ước bất bình với nước ngoài làm cho tầng lớp xã hội phản ứng mạnh mẽ khi các hiệp ước này bất lợi cho Nhật Bản và đẩy đất nước rơi vào tình trạng lạc hậu, bị áp bức, kinh tế kém phát triển. Nhân dân Nhật Bản dưới chế độ này đã liên tục phản đối, các phong trào đấu tranh chống Sô-gun nổ ra sôi nổi vào những năm 60 của thế kỉ XIX đã làm sụp đổ chế độ Mạc phủ. Đến tháng 01/1868, Sô-gun bị lật đổ, chấm dứt hoàn toàn chế độ Mạc Phủ, Thiên hoàng Minh Trị trở lại nắm quyền và thực hiện một loạt cải cách về tất cả các lĩnh vực để vực dậy đất nước. – Nội dung cải cách Minh Trị Xem Thêm Máy tính không xem được YouTube – Nguyên nhân và cách khắc phục 2Tháng 1-1868, sau khi lật đổ Tướng Số gun và lên ngôi, nhận thấy tình trạng yếu kém của đất nước, Thiên hoàng Minh Trị đã bắt tay vào thực hiện một loạt cải cách tiến bộ thời bấy giờ cuộc cải cách này còn gọi là cuộc Duy tân Minh Trị nhằm đưa Nhật Bản thoát khỏi tình trạng phong kiến lạc hậu, đưa kinh tế Nhật bản ngày càng phát triển. Cuộc cải cách được tiến hành trên mọi lĩnh vực. + Về chính trị sau khi lên ngôi Thiên Hoàng Minh Trị tuyên bố thủ tiêu chế độ Mạc phủ, lập chính phủ mới, thực hiện bình đẳng ban bố quyền tự do, đưa quý tộc tư sản hóa và đại tư sản lên nắm chính quyền. Tiếp đó năm 1889, Nhật hoàng tuyên bố ban hành Hiến pháp mới năm 1889, chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập từ đây. + Về kinh tế dưới tình trạng thị trường mua bán còn lạc hậu, để thống nhất thị trường, Nhật hoàng ra lệnh thống nhất tiền tệ nhằm tiến tới thống nhất thị trường, đẩy mạnh quá trình mua bán để đưa kinh tế ổn định và phát triển. Nhận thấy nhu cầu của người dân trong việc phát triển kinh tế, Nhật hoàng cho phép mua bán ruộng đất, tăng cường phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nông thôn. Tồn tại nhiều năm dưới chế độ phong kiến khiến Nhật Bản lạc hậu cả về kinh tế lẫn cơ sở vật chất, nhận thấy cơ sở hạ tầng là nền tảng để phát triển kinh tế mà Nhật hoàng đã tiến hành cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đường xá, cầu cống, phục vụ giao thông liên lạc, mở rộng thị trường mua bán nhờ các phương tiện giao thông. + Về quân sự là một người tiến bộ và có học thức, tư tưởng tiến bộ từ phương tây, Thiên Hoàng tiến hành cải cách quân sự theo kiểu phương Tây, cụ thể là trong việc huấn luyện quân sự theo phương tây. Thay vì chế độ trưng binh như hồi còn phong kiến, Thiên hoàng thực hiện chính sách nghĩa vụ quân sự, tức các công dân đủ điều kiện đều phải nhập ngũ để huấn luyện. Ngoài ra Thiên hoàng còn chú trọng đóng tàu chiến, sản xuất vũ khí đạn dược để phát triển quân sự. + Về giáo dục để nâng cao dân trí sau một khoảng thời gian dài lâm vào tình trạng phong kiến và lạc hậu thì Thiên hoàng đã thi hành chính sách giáo dục bắt buộc. Điều này đảm bảo hầu hết mọi người dân đều được tiếp cận với con chữ ở các chương trình bắt buộc tối thiểu. Nhận thấy giáo dục cần được coi trọng, không chỉ cho rằng cần phải thực hiện chính sách giáo dục bắt buộc mà Thiên Hoàng còn chú trọng đến chất lượng giáo dục, cụ thể là chú trọng nội dung khoa học – kỹ thuật trong chương trình giảng dạy, tức tiếp nhận kiến thức tiến bộ từ phương tây. Đặc biệt hơn, còn cử những học sinh giỏi đi du học phương Tây để học hỏi thêm nhiều kiến thức sâu rộng từ Phương Tây về phục vụ cho đất nước mình. 2. Tính chất của cuộc Duy Tân Minh Trị Xem Thêm Hướng dẫn binary to signed integer python – nhị phân sang số nguyên có dấu pythonVới những nội dung của cuộc duy tân nêu trên, Thiên hoàng Minh Trị đã thành công đưa nước Nhật thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa của thực dân phương Tây mà Mạc Phủ trước đấy đã thực hiện sẵn. Nhờ có cuộc duy tân minh trị này mà Nhật Bản từ một nước phong kiến, lạc hậu và mục rữa trở thành một Nhật Bản giàu mạnh, phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cuộc Duy tân Minh Trị này mang tính chất của một cuộc cách mạng tư sản, diễn ra dưới hình thức cải cách, canh tân đất nước. Bản chất của nó là một cuộc cách mạng tư sản do cuộc duy tân này là do giai cấp tư sản tiến hành thực hiện nhằm lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập nền thống trị của giai cấp tư sản Nhật hoàng tuyên bố ban hành Hiến pháp mới năm 1889, mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. 3. Ý nghĩa lịch sử của cuộc Duy Tân Minh Trị Cuộc Duy tân 1868 của Thiên Hoàng Minh trị diễn ra vào lúc đất nước bị Mạc phủ làm cho suy yếu, đứng trước nguy cơ bị đô hộ bởi các nước phương tây khi trước đó Mạc phủ đã ký kết với các nước phương tây nhiều hiệp ước bất bình. Nhờ cuộc duy tân này mà Nhật Bản giữ được độc lập, chủ quyền dân tộc, đưa kinh tế văn hóa cung như giáo dục của Nhật Bản phát triển; đạt được nhiều thành tựu ở mọi lĩnh vực thực hiện cải cách khác, cuộc duy tân này mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nhật Bản khi bản chất của nó là một cuộc cách mạng tư bản và cuộc cải cách này đã dẫn đến sự ra đời của Hiến pháp mới. Từ đây chủ nghĩa tư bản phát triển và đưa Nhật Bản trở thành cường quốc sau này. – Với sự thành công của cuộc duy tân này, sức ảnh hưởng của nó có sự lan tỏa nhất định đến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở một số nước châu Á trong đó có Việt Nam do cuộc duy tân này là một trong những nhân tố góp phần hình thành con đường cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Cụ thể ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX cũng đã diễn ra các cuộc cách mạng theo khuynh hướng này. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì cuộc duy tân minh trị này cũng tồn tại những hạn chế khi cuộc duy tân này chưa thủ tiêu triệt để thế lực phong kiến quân phiệt do thế lực này tồn tại đã lâu đời mà có sức mạnh lớn. Sau cuộc duy tân thì ưu thế về kinh tế – chính trị của tầng lớp quý tộc vẫn được duy trì. Kinh tế văn hóa đều phát triển nhưng không phải mọi tầng lớp nhân dân đều được hưởng quyền lợi, hạn chế của cuộc duy tân này là chưa đáp ứng được quyền lợi cho quần chúng nhân dân. Với tính chất như một cuộc cách mạng tư sản thì những kết quả mà nó mang lại đã để lại nhiều bài học cho những đất nước muốn thực hiện cải cách khác cũng như cả Việt Nam. Điều quan trọng nhất khi thực hiện cải cách là sự đoàn kết của toàn dân tộc và sự tin tưởng vào giai cấp lãnh đạo. Để cải cách thành công thì nhân tố quan trọng nhất là có sự đoàn kết của toàn dân tộc và tinh thần tự cường của quốc gia, nỗ lực của tất cả nhân dân muốn thoát khỏi phong kiến lạc hậu. Khi có các chính sách cải cách thì điều đầu tiên cần có là nhân dân đoàn kết vì mục tiêu chung là sức mạnh để cuộc cải cách thực hiện thành công và thúc đẩy đất nước phát triển, bởi nhân dân là nòng cốt của cuộc cải cách, các nội dung cải cách đều là vì nhân dân và lợi ích của cả dân tộc, do đó nhân dân có đoàn kết thì mới tạo ra hiệu quả cho cải cách, cho đất nước, đưa đất nước vươn lên. Bởi từ xưa đến nay, nhân tố con người luôn là nhân tố chủ quan và quan trọng bậc nhất. Việt Nam chúng ta đang trong công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh cần học tập các giá trị cốt lõi trong cải cách Nhật Bản, luôn luôn chú trọng tinh thần đoàn kết toàn dân một lòng vì một mục tiêu chung, phát huy tinh thần tự lực tự cường của dân tộc. Như vậy, qua những nội dung đã phân tích ở trên, cuộc Duy Tân Minh trị đã đưa Nhật bản thoát khỏi khủng hoảng bởi chế độ Mạc phủ gây ra, đưa đất nước trở mình về mọi mặt, đạt được những thành tựu đáng kể trong quá trình phát triển đất nước. Cuộc Duy tân Minh trị của Nhật Bản 1868 được thực hiện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, giáo dục. Thông qua cuộc cải cách này đã đưa Nhật Bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Cuộc duy tân này được xem như một cuộc cách mạng mang tính chất canh tân đất nước, mang lại kết quả thành công cho Nhật Bản. Top 7 nội dung của cuộc duy tân minh trị tổng hợp bởi Tin Tức Giáo Dục Học Tập Tiny Nêu nội dung chính của cuộc Duy tân Minh Trị? Tác giả Ngày đăng 05/28/2022 Đánh giá 868 vote Tóm tắt Nêu nội dung chính của cuộc Duy tân Minh Trị. – Về chính trị + Thủ tiêu chế độ Mạc phủ, thành lập chính phủ mới, trong đó đại biểu của tầng lớp quý tộc tư … Trình bày nội dung và kết quả của cuộc Duy Tân Minh Trị? Tác giả Ngày đăng 03/22/2023 Đánh giá 420 vote Tóm tắt Nội dung của cuộc Duy Tân Minh Trị Kinh tế Thống nhất tiền tệ; Xoá bỏ đặc quyền ruộng đất. Tăng cường, phát triển kinh tế TBCN ở nông thôn; Xây dựng cơ sở … Nêu nội dung và ý nghĩa cuộc Duy tân Minh Trị năm 1868? Tác giả Ngày đăng 03/24/2023 Đánh giá 317 vote Tóm tắt Nêu nội dung và ý nghĩa cuộc Duy tân Minh Trị năm 1868? Giải bài tập 1 trang 69 SGK Lịch sử 8. Tổng hợp đề thi học kì 2 lớp 8 tất cả các môn. Khớp với kết quả tìm kiếm Như vậy, qua những nội dung đã phân tích ở trên, cuộc Duy Tân Minh trị đã đưa Nhật bản thoát khỏi khủng hoảng bởi chế độ Mạc phủ gây ra, đưa đất nước trở mình về mọi mặt, đạt được những thành tựu đáng kể trong quá trình phát triển đất nước. Cuộc Duy … Trình bày nội dung cơ bản của cuộc Duy tân Minh Trị Tác giả Ngày đăng 03/27/2023 Đánh giá 396 vote Tóm tắt Thiên hoàng Minh Trị sau khi lên ngôi đã tiến hành một loạt cải cách tiến bộ toàn diện – Cuộc Duy tân Minh Trị với nội dung cơ bản – Chính trị … Khớp với kết quả tìm kiếm Như vậy, qua những nội dung đã phân tích ở trên, cuộc Duy Tân Minh trị đã đưa Nhật bản thoát khỏi khủng hoảng bởi chế độ Mạc phủ gây ra, đưa đất nước trở mình về mọi mặt, đạt được những thành tựu đáng kể trong quá trình phát triển đất nước. Cuộc Duy … Lịch sử lớp 11 Tác giả Ngày đăng 11/10/2022 Đánh giá 360 vote Tóm tắt Thiên hoàng Minh Trị sau khi lên ngôi đã tiến hành một loạt cải cách tiến bộ toàn diện – Cuộc Duy tân Minh Trị với nội dung cơ bản. Khớp với kết quả tìm kiếm Như vậy, qua những nội dung đã phân tích ở trên, cuộc Duy Tân Minh trị đã đưa Nhật bản thoát khỏi khủng hoảng bởi chế độ Mạc phủ gây ra, đưa đất nước trở mình về mọi mặt, đạt được những thành tựu đáng kể trong quá trình phát triển đất nước. Cuộc Duy … Trình bày nội dung, kết quả của cuộc duy tân Minh Trị Tác giả Ngày đăng 02/06/2023 Đánh giá 385 vote Tóm tắt Trình bày nội dung, kết quả của cuộc duy tân Minh Trị. Với giải Câu hỏi trang 67 sgk Lịch sử lớp 8 được biên soạn lời giải chi tiết sẽ giúp học sinh biết cách … Khớp với kết quả tìm kiếm Như vậy, qua những nội dung đã phân tích ở trên, cuộc Duy Tân Minh trị đã đưa Nhật bản thoát khỏi khủng hoảng bởi chế độ Mạc phủ gây ra, đưa đất nước trở mình về mọi mặt, đạt được những thành tựu đáng kể trong quá trình phát triển đất nước. Cuộc Duy … Cuộc Duy tân Minh Trị Tác giả Ngày đăng 06/02/2022 Đánh giá 249 vote Tóm tắt Mục 2. 2. Nội dung cuộc Duy tân Minh Trị. – Đầu năm 1868, Thiên hoàng Minh Trị đã tiến hành một loạt cải cách tiến bộ, trên tất cả các mặt * Về kinh tế. Khớp với kết quả tìm kiếm Như vậy, qua những nội dung đã phân tích ở trên, cuộc Duy Tân Minh trị đã đưa Nhật bản thoát khỏi khủng hoảng bởi chế độ Mạc phủ gây ra, đưa đất nước trở mình về mọi mặt, đạt được những thành tựu đáng kể trong quá trình phát triển đất nước. Cuộc Duy …
Banner được lưu thành công. Bài 12 Nhật Bản giữa thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX * Nội dung cải cách Minh Trị Tháng 1-1868, sau khi lên ngôi, Thiên hoàng Minh Trị May-gi đã thực hiện một loạt cải cách tiến bộ nhằm đưa Nhật Bản thoát khỏi tình trạng phong kiến lạc Về chính trị + Nhật hoàng tuyên bố thủ tiêu chế độ Mạc phủ, lập chính phủ mới, thực hiện bình đẳng ban bố quyền tự do. + Ban hành Hiến pháp Về kinh tế + Thống nhất tiền tệ, thống nhất thị trường, xoá bỏ sự độc quyền ruộng đất của giai cấp phong kiến. + Tăng cường phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nông thôn. + Xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá, cầu cống, phục vụ giao thông liên Về quân sự + Được tổ chức huấn luyện theo kiểu phương Tây. + Chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng binh. + Chú trọng đóng tàu chiến, sản xuất vũ khí đạn Về giáo dục + Thi hành chính sách giáo dục bắt buộc. + Chú trọng nội dung khoa học- kỹ thuật trong chương trình giảng dạy… + Cử những học sinh giỏi đi du học phương Tây ...* Tính chất – ý nghĩa- Cải cách Minh Trị mang tính chất của một cuộc cách mạng tư thoát khỏi số phận bị các nước tư bản phương Tây xâm lược- Mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở Nhật.Nguồn Bài 1 trang 69 sgk Lịch sử 8 Bài viết cùng thư mục
Một trong những cuộc cải cách lớn nhất của Nhật Bản những năm cuối Thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX phải kể đến cuộc Duy Tân Minh Trị được thực hiện bởi Thiên Hoàng Minh Trị vào năm 1868. Cuộc cải cách về mọi lĩnh vực này đưa Nhật Bản bước vào một thời kỳ mới. Dưới đây là các nội dung phân tích về nội dung, tính chất, ý nghĩa lịch sử liên quan đến cuộc Duy Tân Minh Trị này. Luật sư tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài Trước khi tìm hiểu nội dung của cuộc Duy Tân Minh Trị thì điều đầu tiên chúng ta cần biết chính là nguyên nhân của cuộc Duy Tân Minh Trị này. Nguyên nhân phải kể đến bối cảnh đất nước của Nhật Bản lúc bấy giờ. Đầu thế kỷ XIX, Mạc phủ đứng đầu là tướng quân Sô gun. Khi nắm quyền, thời kỳ này Sô gun khiến Nhật Bản rơi vào tình trạng khủng hoảng vì chế độ phong kiến. Mạc phủ liên tục ký kết các hiệp ước bất bình với nước ngoài làm cho tầng lớp xã hội phản ứng mạnh mẽ khi các hiệp ước này bất lợi cho Nhật Bản và đẩy đất nước rơi vào tình trạng lạc hậu, bị áp bức, kinh tế kém phát triển. Nhân dân Nhật Bản dưới chế độ này đã liên tục phản đối, các phong trào đấu tranh chống Sô-gun nổ ra sôi nổi vào những năm 60 của thế kỉ XIX đã làm sụp đổ chế độ Mạc phủ. Đến tháng 01/1868, Sô-gun bị lật đổ, chấm dứt hoàn toàn chế độ Mạc Phủ, Thiên hoàng Minh Trị trở lại nắm quyền và thực hiện một loạt cải cách về tất cả các lĩnh vực để vực dậy đất nước. – Nội dung cải cách Minh Trị Tháng 1-1868, sau khi lật đổ Tướng Số gun và lên ngôi, nhận thấy tình trạng yếu kém của đất nước, Thiên hoàng Minh Trị đã bắt tay vào thực hiện một loạt cải cách tiến bộ thời bấy giờ cuộc cải cách này còn gọi là cuộc Duy tân Minh Trị nhằm đưa Nhật Bản thoát khỏi tình trạng phong kiến lạc hậu, đưa kinh tế Nhật bản ngày càng phát triển. Cuộc cải cách được tiến hành trên mọi lĩnh vực. + Về chính trị sau khi lên ngôi Thiên Hoàng Minh Trị tuyên bố thủ tiêu chế độ Mạc phủ, lập chính phủ mới, thực hiện bình đẳng ban bố quyền tự do, đưa quý tộc tư sản hóa và đại tư sản lên nắm chính quyền. Tiếp đó năm 1889, Nhật hoàng tuyên bố ban hành Hiến pháp mới năm 1889, chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập từ đây. + Về kinh tế dưới tình trạng thị trường mua bán còn lạc hậu, để thống nhất thị trường, Nhật hoàng ra lệnh thống nhất tiền tệ nhằm tiến tới thống nhất thị trường, đẩy mạnh quá trình mua bán để đưa kinh tế ổn định và phát triển. Nhận thấy nhu cầu của người dân trong việc phát triển kinh tế, Nhật hoàng cho phép mua bán ruộng đất, tăng cường phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nông thôn. Tồn tại nhiều năm dưới chế độ phong kiến khiến Nhật Bản lạc hậu cả về kinh tế lẫn cơ sở vật chất, nhận thấy cơ sở hạ tầng là nền tảng để phát triển kinh tế mà Nhật hoàng đã tiến hành cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đường xá, cầu cống, phục vụ giao thông liên lạc, mở rộng thị trường mua bán nhờ các phương tiện giao thông. + Về quân sự là một người tiến bộ và có học thức, tư tưởng tiến bộ từ phương tây, Thiên Hoàng tiến hành cải cách quân sự theo kiểu phương Tây, cụ thể là trong việc huấn luyện quân sự theo phương tây. Thay vì chế độ trưng binh như hồi còn phong kiến, Thiên hoàng thực hiện chính sách nghĩa vụ quân sự, tức các công dân đủ điều kiện đều phải nhập ngũ để huấn luyện. Ngoài ra Thiên hoàng còn chú trọng đóng tàu chiến, sản xuất vũ khí đạn dược để phát triển quân sự. + Về giáo dục để nâng cao dân trí sau một khoảng thời gian dài lâm vào tình trạng phong kiến và lạc hậu thì Thiên hoàng đã thi hành chính sách giáo dục bắt buộc. Điều này đảm bảo hầu hết mọi người dân đều được tiếp cận với con chữ ở các chương trình bắt buộc tối thiểu. Nhận thấy giáo dục cần được coi trọng, không chỉ cho rằng cần phải thực hiện chính sách giáo dục bắt buộc mà Thiên Hoàng còn chú trọng đến chất lượng giáo dục, cụ thể là chú trọng nội dung khoa học – kỹ thuật trong chương trình giảng dạy, tức tiếp nhận kiến thức tiến bộ từ phương tây. Đặc biệt hơn, còn cử những học sinh giỏi đi du học phương Tây để học hỏi thêm nhiều kiến thức sâu rộng từ Phương Tây về phục vụ cho đất nước mình. 2. Tính chất của cuộc Duy Tân Minh Trị Với những nội dung của cuộc duy tân nêu trên, Thiên hoàng Minh Trị đã thành công đưa nước Nhật thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa của thực dân phương Tây mà Mạc Phủ trước đấy đã thực hiện sẵn. Nhờ có cuộc duy tân minh trị này mà Nhật Bản từ một nước phong kiến, lạc hậu và mục rữa trở thành một Nhật Bản giàu mạnh, phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cuộc Duy tân Minh Trị này mang tính chất của một cuộc cách mạng tư sản, diễn ra dưới hình thức cải cách, canh tân đất nước. Bản chất của nó là một cuộc cách mạng tư sản do cuộc duy tân này là do giai cấp tư sản tiến hành thực hiện nhằm lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập nền thống trị của giai cấp tư sản Nhật hoàng tuyên bố ban hành Hiến pháp mới năm 1889, mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. 3. Ý nghĩa lịch sử của cuộc Duy Tân Minh Trị Cuộc Duy tân 1868 của Thiên Hoàng Minh trị diễn ra vào lúc đất nước bị Mạc phủ làm cho suy yếu, đứng trước nguy cơ bị đô hộ bởi các nước phương tây khi trước đó Mạc phủ đã ký kết với các nước phương tây nhiều hiệp ước bất bình. Nhờ cuộc duy tân này mà Nhật Bản giữ được độc lập, chủ quyền dân tộc, đưa kinh tế văn hóa cung như giáo dục của Nhật Bản phát triển; đạt được nhiều thành tựu ở mọi lĩnh vực thực hiện cải cách khác, cuộc duy tân này mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nhật Bản khi bản chất của nó là một cuộc cách mạng tư bản và cuộc cải cách này đã dẫn đến sự ra đời của Hiến pháp mới. Từ đây chủ nghĩa tư bản phát triển và đưa Nhật Bản trở thành cường quốc sau này. – Với sự thành công của cuộc duy tân này, sức ảnh hưởng của nó có sự lan tỏa nhất định đến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở một số nước châu Á trong đó có Việt Nam do cuộc duy tân này là một trong những nhân tố góp phần hình thành con đường cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Cụ thể ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX cũng đã diễn ra các cuộc cách mạng theo khuynh hướng này. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì cuộc duy tân minh trị này cũng tồn tại những hạn chế khi cuộc duy tân này chưa thủ tiêu triệt để thế lực phong kiến quân phiệt do thế lực này tồn tại đã lâu đời mà có sức mạnh lớn. Sau cuộc duy tân thì ưu thế về kinh tế – chính trị của tầng lớp quý tộc vẫn được duy trì. Kinh tế văn hóa đều phát triển nhưng không phải mọi tầng lớp nhân dân đều được hưởng quyền lợi, hạn chế của cuộc duy tân này là chưa đáp ứng được quyền lợi cho quần chúng nhân dân. Với tính chất như một cuộc cách mạng tư sản thì những kết quả mà nó mang lại đã để lại nhiều bài học cho những đất nước muốn thực hiện cải cách khác cũng như cả Việt Nam. Điều quan trọng nhất khi thực hiện cải cách là sự đoàn kết của toàn dân tộc và sự tin tưởng vào giai cấp lãnh đạo. Để cải cách thành công thì nhân tố quan trọng nhất là có sự đoàn kết của toàn dân tộc và tinh thần tự cường của quốc gia, nỗ lực của tất cả nhân dân muốn thoát khỏi phong kiến lạc hậu. Khi có các chính sách cải cách thì điều đầu tiên cần có là nhân dân đoàn kết vì mục tiêu chung là sức mạnh để cuộc cải cách thực hiện thành công và thúc đẩy đất nước phát triển, bởi nhân dân là nòng cốt của cuộc cải cách, các nội dung cải cách đều là vì nhân dân và lợi ích của cả dân tộc, do đó nhân dân có đoàn kết thì mới tạo ra hiệu quả cho cải cách, cho đất nước, đưa đất nước vươn lên. Bởi từ xưa đến nay, nhân tố con người luôn là nhân tố chủ quan và quan trọng bậc nhất. Việt Nam chúng ta đang trong công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh cần học tập các giá trị cốt lõi trong cải cách Nhật Bản, luôn luôn chú trọng tinh thần đoàn kết toàn dân một lòng vì một mục tiêu chung, phát huy tinh thần tự lực tự cường của dân tộc. Như vậy, qua những nội dung đã phân tích ở trên, cuộc Duy Tân Minh trị đã đưa Nhật bản thoát khỏi khủng hoảng bởi chế độ Mạc phủ gây ra, đưa đất nước trở mình về mọi mặt, đạt được những thành tựu đáng kể trong quá trình phát triển đất nước. Cuộc Duy tân Minh trị của Nhật Bản 1868 được thực hiện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, giáo dục. Thông qua cuộc cải cách này đã đưa Nhật Bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Cuộc duy tân này được xem như một cuộc cách mạng mang tính chất canh tân đất nước, mang lại kết quả thành công cho Nhật Bản.
Cuộc Duy tân Minh Trị diễn ra với hàng loạt cải cách có ảnh hưởng tác động rất lớn đến cấu trúc tài chính, xã hội, chính trị đất nước Nhật Bản. Vậy hoàn cảnh, nội dung, tính chất và ý nghĩa của cuộc Duy tân Minh Trị là gì?… Nội dung bài viết ở chỗ này của Bankstore sẽ cung cấp cho bạn những kiến thức hữu ích về chủ đề trên, cùng tìm hiểu nhé!. Cuộc Duy Tân Minh Trị đã lưu lại bước ngoặc thay đổi lớn lao về mọi mặt trong lịch sử vẻ vang Nhật Bản cận kim Triều đình thực hiện “Phế phiên lập huyện” để xóa quyền lực của tương đối nhiều đại danh, huỷ bỏ khối hệ thống lãnh địa và danh hiệu của tương đối nhiều đại danh. Đồng thời tuyên bố ” Tứ dân đồng đẳng” Tính chất Đây được xem là cuộc cách mệnh tư sản không triệt để và thời kì Minh Trị được xem là thời kì quá độ từ chính sách phong kiến sang chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên đây vẫn được xem là một cuộc cách mệnh tư sản do – Về tài chính xóa sổ chính sách độc quyền về ruộng đất của giai cấp phong kiến, thống nhất tiền tệ, phát triển tài chính TBCN ở nông thôn, xây dựng hạ tầng giao thông. – Về chính trị Cơ quan chính phủ được tổ chức theo phong cách châu Âu. Tòa án cũng được thành lập theo phong cách tư sản. Như vậy, cuộc cải cách này đưa Nhật Bản phát triển theo mô hình các nước tư bản. Tuy nhiên nó không do giai cấp tư sản lãnh đạo, không triết để xóa sổ bỏ sự thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến nên có thể xem là cuộc cách mệnh tư sản không triệt để. ý nghĩa quan trọng nhất của cuộc cải cách minh trị khi đối chiếu với sự phát triển của nhật bản là gì Cảm ơn các bạn đã theo dõi chúc các bạn vui vẻ Nếu các bạn thấy hay hay nhận Like, share hoặc đăng ký để nhận được update video tiên tiến nhất. Thank you for Watching! for the follow up, Subscribe to the channel Sub Google Plus Facebook Twitter E-Mail WEB Hoàn cảnh cuộc Duy tân Minh Trị Vào thời kỳ vào giữa thế kỷ XIX, tình trạng rủi ro không may diễn ra nghiêm trọng về mọi mặt từ tài chính, xã hội đến chính trị. Quyết sách phong kiến của Nhật Bản đã chính thức bế tắc và lạc hậu trước quá trình xâm nhập mạnh mẽ của thực dân châu Âu. Do đó, trước sự xâm nhập mạnh mẽ của thực dân châu Âu thì Nhật không còn chống lại được sự đàn áp đó. Từ thời điểm năm 1790 đến năm 1840 thì theo số liệu thống kế, Nhật đã có 22 lần mất mùa – Đó là tín hiệu rõ ràng nhất cho thấy Phong kiến Nhật rơi vào sự rủi ro không may trầm trọng. Hơn nữa, vào đầu thế kỷ thế kỉ XIX thì công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ đã làm nảy sinh các giai cấp phát mới. Giai cấp thương nhân xuất hiện, đặc biệt quan trọng các thương nhân ở Osaca hay các Daimyo tây-nam Marketing Thương mại thường xuyên với nước ngoài. Không những thế, sự đối lập của nền kinh tế thị trường lạc hậu kiểu cũ ShoGun với những Daimyo địa chủ miền Bắc. Sát đó, nông dân lại sở hữu tới 80% là những người dân có thân phận thấp kém, luôn bị tầng lớp địa chủ chèn lấn khiến đời sống khốn khó. Vì thế, đó cũng là lực lượng chống lại ShoGun đông quần đảo và hùng hậu nhất. Nội dung cuộc Duy tân Minh Trị Đứng trước nguy cơ đó nhân dân Nhật Bản đã quyết định mở cuộc Duy tân Minh Trị. Cuộc cách mệnh này diễn ra với nội dung sau Về tài chính Ban bố quyền tự do Marketing Thương mại; Thống nhất tiền tệ; Xoá bỏ độc quyền ruộng đất; Tăng cường, phát triển tài chính TBCN ở nông thôn; Xây dựng hạ tầng. Chủ yếu giai đoạn này thì nền nông nghiệp của Nhật vẫn đang sản xuất theo như hình thức lạc hậu, những chứng minh cho thấy hơn 22 lần Nhật bị mất mùa và chúng minh cho việc rủi ro không may về tài chính nghiêm trọng, nghèo đói. Nền công nghiệp cũng đang trong tình trạng thương nghiệp ở Nhật bùng phát với lợi điểm hải cảng lớn. Về xã hội Nhật Bản vẫn duy trì chính sách đẳng cấp với quyền binh. Tuy nhiên nhiều tầng lớp cũng phải chuyển sang làm nông do quyền lực không còn như trước. Nông dân thì bị áp bức cả hai phía là giới quý tộc và thương nhân. Về chính trị Xóa sổ chính sách nông nô, xóa sổ đi các quyền lực của đại danh. Đưa quý tộc, giai cấp tư sản lên nắm chính quyền sở tại. Từ đó cho ra đời hiến pháp 1889 thiết lập chính sách QCLH Tuyên bố mọi nơi đều đồng đẳng. Đúng ra thì nền kinh tế thị trường phải do vua Nhật quyết định, nhưng thực tế lại do Mạc phủ Tokugawa thao túng. Do đó phe hoàng tôn bất bình và xẩy ra trào lưu lật đổ Mạc Phủ, trao lại quyền bính cho vua. Về đối ngoại Các nước phương Tây tận dụng Nhật Bản đang rủi ro không may về mọi mặt đã đàn áp, đòi Nhật Bản phải thông thương. Mạc phủ vạn bất đắc dĩ phải ký hiệp ước, chấp thuận đồng ý mở hai cửa biển Himoda và Hakodate cho tàu thuyền Hoa Kỳ vào Marketing Thương mại. Về quân sự chiến lược Quân đội Nhật Bản thời kỳ Duy tân Minh Trị được tổ chức huấn luyện theo phong cách phương Tây, thiết lập chính sách nghĩa vụ quân sự chiến lược thay cho chính sách trưng binh. Sát đó thì công nghiệp đóng tàu chiến cũng được chú trọng phát triển, đồng thời tiến hành sản xuất vũ khí, đạn dược và mời cả những Chuyên Viên quân sự chiến lược nước ngoài. Về giáo dục Cơ quan chính phủ Nhật Bản đã cho ra đời chính sách giáo dục bắt buộc, trong đó chú trọng nội dung vào khoa học – kỹ thuật với lớp học giảng dạy, đồng thời cũng cử những học sinh giỏi đi du học phương Tây… Nhà vua Nhật dời đô, dấu mốc quan trọng của Duy tân Minh Trị Tính chất của cải cách Duy tân Minh Trị Tính chất của cải cách Duy tân là gì? Diễn giải theo ý nghĩa khác, cuộc Duy tân Minh Trị là một cuộc cách mệnh tư sản không triệt để, và chính thời kỳ Minh Trị được xem là giai đoạn quá độ từ chính sách phong kiến sang chủ nghĩa tư bản. cuộc Duy tân Minh Trị cũng mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở Nhật. Quyết sách Minh Trị đã đặt Nhật Bản trong hoàn cảnh đặc biệt quan trọng, tầng lớp tư sản hóa đã quyết định đến dãy phố phát triển ở Nhật Bản. Đây là một cuộc cải cách mệnh có tính quy luật của thời đại nhằm đưa đất nước tiến lên dãy phố phát triển mới. Từ đó tạo cơ sở cho Nhật thoát khỏi sự nô lệ của phương Tây. Tình hình nhật bản sau cuộc Duy tân Minh Trị cuộc Duy tân Minh Trị đã làm thay đổi rất nhiều mặt của đất nước Nhật Bản. Tình hình của đất nước sau cuộc cách mệnh là Xóa sổ được chính sách độc quyền ruộng đất Thoát khỏi sự đô hộ của tương đối nhiều nước phương Tây Đời sống người dân được ổn định Xóa sổ giai cấp phong kiến và phát triển đất nước nước theo mô hình nước tư bản Ý nghĩa nổi bật của cuộc Duy tân Minh Trị Cuộc cách mệnh Duy Tân Minh Trị có ý nghĩa như một cuộc cách mệnh tư sản với những ý nghĩa nổi bật. Về chính trị Tác dụng của cuộc Duy tân Minh Trị ở Nhật Bản đã mở đường cho chính sách phong kiến thành một nước tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi sự lệ thuộc của tương đối nhiều nước phương Tây. Cuộc cách mệnh này đã thực hiện thành công và đã dẫn đến quá trình công nghiệp hóa của Nhật Bản phát triển mạnh mẽ, trở thành một nước phát triển hùng mạnh ở Châu Á Thái Bình Dương. Cơ quan chính phủ Nhật thời kỳ này được tổ chức theo phong cách châu Âu. Tòa án cũng được thành lập theo phong cách tư sản. Về tài chính Cuộc cách mệnh Duy tân Minh Trị đã xóa sổ chính sách độc quyền về ruộng đất của giai cấp phong kiến, thống nhất tiền tệ, phát triển tài chính tư bản chủ nghĩa ở nông thôn, đồng thời cũng xây dựng hạ tầng giao thông. Cuộc cách mệnh đã và đang đuổi theo kịp xu hướng phát triển của tương đối nhiều nước phương Tây, đặc biệt quan trọng là việc chú trọng phát triển tài chính. Cuộc cải cách Duy tân Minh Trị đã và đang đưa nền kinh tế thị trường Nhật Bản phát triển mạnh mẽ trong 30 năm cuối thế kỉ XIX, đã đưa nước Nhật trở thành một cường quốc quân sự chiến lược vào năm 1905. Nhận xét về cải cách Duy tân Minh Trị Có thể thấy rất rõ ràng, cuộc cải cách Duy tân Minh Trị là cuộc cải cách tiến bộ trên nhiều ngành nghề như tài chính, văn hóa truyền thống, chính trị, quân sự chiến lược hay giáo dục… Đây là cuộc cách mệnh tư sản chấm hết chính sách phong kiến, đồng thời thiết lập chính sách của quý tộc, tư sản hóa mà đứng đầu là Minh Trị. cuộc Duy tân Minh Trị đã bước đầu hỗ trợ cho dân thoát khỏi thực trạng đô hộ, bảo vệ được chủ quyền đất nước. Là một cuộc cải cách thành công, lần đầu tiên một nước châu Á thoát khỏi ảnh hưởng tác động của đế quốc phương Tây. Cũng chính nhờ những cải cách tiến bộ, toàn diện mà đồng đều thì đến vào cuối thế kỷ XIX – vào đầu thế kỷ XX, đất nước Nhật Bản đã vươn lên thành một đất nước tư bản công nghiệp, thoát khỏi cảnh trở thành thuộc địa. Hạn chế của cuộc Duy tân Minh Trị Nhật Bản đem quân đi xâm chiếm các nước yếu hơn cuộc Duy tân Minh Trị thành công đã hỗ trợ nước Nhật sánh vai với những quốc gia tiên tiến và phát triển. Tuy nhiên sự hạn chế là Nhật Bản lại tiếp tục đi theo dãy phố chủ nghĩa đế quốc để đem quân đi xâm chiếm lại những nước yếu hơn mình điển hình Đài Loan, Triều Tiên, Trung Quốc…. Cuộc cải cách không cải thiện nhập cuộc sống khó khăn của người lao động Nông dân với nhập cuộc sống khó khăn, người lao động thì lương chỉ đủ tiền cơm gạo. Cụ thể là với việc thi hành chính sách giảm phát để thúc đẩy các xí nghiệp công nghiệp, đã làm giá nông phẩm hạ xuống. Điều này khiến cho đời sống của nông dân trở nên khó khăn, họ không đủ sức trả địa tô và phải đi vay nặng lãi. Đặc biệt quan trọng là nhiều nông dân phá sản và phải bán tháo đất đai cho những kẻ quyết toán giải ngân nặng lãi. Tình trạng này được gọi là đám “địa chủ ăn bám”. Nông dân thì mất hết đất đai và rơi xuống hàng tá điền, phải canh tác thuê cho địa chủ hoặc phải bắt đầu đi lao động thuê ở những hãng xưởng, nhập cuộc thao tác làm việc rất cực khổ. Giai cấp công nhân bị bóc lột nghiêm trọng Sát đó, sự phát triển của tài chính Nhật Bản cũng khiến giai cấp công nhân Nhật Bản ngày càng bị bóc lột nặng nề với nhập cuộc thao tác làm việc ngày càng tồi tệ dẫn đến sự việc đấu tranh của giai cấp công nhân. Trước sự bóc lột đó, đến tháng 7/1922 thì Đảng cộng sản Nhật Bản được thành lập và hoạt động bí mật dù bất chấp việc bị ngăn cấm.. Nội dung bài viết trên đây đã giới thiệu rõ ràng và cụ thể cho bạn về cuộc Duy tân Minh Trị của đế quốc Nhật đã tạo ra bước đổi mới, thoát khỏi ách thống trị của tương đối nhiều nước phương Tây. Hy vọng qua nội dung bài viết của Bankstore về chủ đề cuộc Duy tân Minh Trị, bạn đã nắm rõ được kiến thức quan trọng này. Chúc các bạn học tập tốt! Xem thêm Cuộc chiến tranh thế giới thứ 1 lịch sử vẻ vang 11 Nguyên nhân, Diễn biến, Tính chất Cách mệnh tháng 10 Nga năm 1917 Diễn biến, Tính chất, Kết quả và Ý nghĩa
nội dung cơ bản của cuộc duy tân minh trị